Hồn Trương Ba, da hàng thịt
( Lưu Quang Vũ )
Lưu Quang vũ là một tài năng nhiều mặt, là một nhà văn xuất sắc của văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông sáng tác nhiều thể loại và đặc biệt tạo tiếng vang ở thể loại kịch. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những vở kịch tiêu biểu nhất của ông. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc. Qua đoạn trích vở kịch, ông muốn gửi tới người đọc một thông điệp: Sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị cao quý.
Người lái đò sông Đà
(Nguyễn Tuân)
Nguyễn Tuân là nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp. Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật, ông đã để lại cho đời nhiều áng văn giá trị, trong đó phải kể đến “Người lái đò sông Đà” trích trong tùy bút “Sông Đà” năm 1960. Tác phẩm là thành quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc, với mục đích tìm kiếm “chất vàng” của núi sông, và “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động.
Ai đã đặt tên cho dòng sông
( Hoàng Phủ Ngọc Tường )
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến Tất cả thể hiện qua lối hành văn hướng nội, xúc tích, mê đắm, tài hoa. Đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trích trong phần thứ nhất của tác phẩm cùng tên, được viết năm 1981. Đoạn trích là kết tinh tình yêu tha thiết và sự gắn bó sâu sắc của tác giả với cảnh vật và con người đất Huế.
( Tô Hoài )
Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng sáng tác kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có cùng với sự am hiểu các phong tục tập quán khác nhau của các vùng miền. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích từ tập truyện “Tây Bắc”, là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng tại vùng Tây Bắc cùng bộ đội giải phóng. Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục tập quán nơi đây, đồng thời cho thấy cuộc sống đau khổ, tối tăm của những con người vùng thiểu số. Tác phẩm bộc lộ giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm.
Rừng xà nu
Nguyễn Trung Thành là nhà văn đặc biệt thành công khi viết về Tây Nguyên. Những sáng tác của ông mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn, thường đề cập đến những vấn đề lớn lao, trọng đại của dân tộc. Truyện ngắn “Rừng Xà Nu” được viết năm 1965, là tác phẩm tiêu biểu viết về chiến tranh cách mạng, đề tài miền núi. Tác phẩm là một thiên truyện mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Thông qua câu chuyện về những con người ở bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, tác giả đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc: Để cho sự sống của Đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
Đất nước
( Nguyễn Khoa Điềm )
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mỹ. Thơ ông giàu suy tư, cảm xúc dồn nén, đậm chất trữ tình, chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” được trích trong chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” (197)) tại chiến khu Trị – Thiên, giữa không khí sôi sục chống Mỹ của cả dân tộc. Đoạn trích là cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua nhiều phương diện: Lịch sử, địa lí, văn hóa, .. Đóng góp riêng của đoạn trích là sự nhấn mạnh tư tưởng : Đất nước của nhân dân”. Các chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn, lôi cuốn cho đoạn trích.
Đàn ghi ta của Lor-ca
( Thanh Thảo )
Thanh thảo là một trong những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. thơ ông là tiếng lòng của người thí thức giàu suy tư, niềm trăn trở về những vấn đề xã hội và thời đại. Bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca” rút từ tập “Khối vuông ru-bích”, tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo: Giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm và không dễ hiểu vì ít nhiều nhuốm sắc màu tượng trưng, siêu thực. Tác phẩm thể hiện nỗi đau xót trước cái chết của nghệ sĩ Lor-ca thiên tài, đồng thời bày tỏ thái độ khâm phục, ngưỡng mộ, tri âm sâu sắc .
Những đứa con trong gia đình
( Nguyễn Thi )
Nguyễn thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của Văn nghệ giải phòng miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Ông được mệnh danh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Ông có năng lực phân tích tâm lý sắc sảo. Văn Nguyễn thi vừa giàu chất hiện thực, vừa đằm thắm chất trữ tình với ngôn ngữ phong phú, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ, có khả năng tạo nên những nhân vật có cá tính mạnh mẽ. Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” được rút ra từ tập “Truyện và ký” (1978), là kết tinh của sự gắn bó sâu nặng giữa tình yêu gia đình và tình yêu Tổ Quốc.
Chiếc thuyền ngoài xa
( Nguyễn Minh Châu )
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Những sáng tác của ông đều theo phương châm đi tìm “hạt ngọc” ẩn dấu trong tâm hồn mỗi con người. Ngòi bút ấy giàu trách nhiệm, suy tư, trăn trở và khám phá. Văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” in lần đầu trong tập “Bến quê”, tiêu biểu cho phong cách tự sự – triết lí của ông. Tác phẩm mang đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người: Nghệ thuận là cuộc đời nhưng cuộc đời chưa hẳn là nghệ thuật.
Ai đã đặt tên cho dòng sông
( Hoàng Phủ Ngọc Tường )
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến
thức phong phú về triết học, lịch sử, địa lý, văn hóa, . Tất cả thể hiện qua lối hành văn hướng nội, xúc tích, mê đắm, tài hoa. Đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trích trong phần thứ nhất của tác phẩm cùng tên, được viết năm 1981. Đoạn trích là kết tinh tình yêu tha thiết và sự gắn bó sâu sắc của tác giả với cảnh vật và con người đất Huế.
Việt Bắc
( Tố Hữu )
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, là cánh chim đầu đàn cho nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông mang tính trữ tình, chính trị sâu sắc lại đậm đà tính dân tộc. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời nhân sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử: Tháng 10/954 Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Tác phẩm là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng và cuộc kháng chiến.
Sóng
( Xuân Quỳnh )
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế tại vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh, diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thách thức với thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lai của con người.
Tuyên ngôn độc lập
( Hồ Chí Minh )
Hồ Chí Minh coi văn học là thứ vũ khí chiến đấu phụng sự đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Khi cầm bút luôn xuất phát từ mục đích, đối tượng để quyết định nội dung và hình thức tác phẩm. Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Nhật đầu hàng đồng minh, nhân dân ta vùng lên giành lại chính quyền. 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Bác độc “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn bản không chỉ là văn kiện lịch sử vô giá mà còn là áng văn chính luận mẫu mực.
Tây Tiến
( Quang Dũng )
Quang Dũng là một gương mặt xuất sắc của thơ ca giai đoạn chống Pháp. Ông là một nghệ sĩ đa tài: Vẽ tranh, soạn nhạc và làm thơ. thơ ông mang nét phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Bài thơ “Tây Tiến” ra
đời cuối năm 1948 khi Quang Dũng rời xa đoàn quân chưa được bao lâu. Với ngòi bút lãng mạn và bút pháp tài hoa, ông đã khắc họa thành công tượng đài bất tử về người lính Tây tiến với vẻ đẹp trẻ trung, lãng mạn, đậm chất bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mỹ lệ,