I – Mở bài
*Giới thiệu chung
– Giới thiệu hai tác giả: Nguyễn Duy, Chính Hữu.
– Giới thiệu về vầng trăng trong văn học và trong hai đoạn trích: Ánh trăng, Đồng chí.
II – Thân bài
*Phân tích
a. Đoạn trích Ánh trăng.
* Được bắt đầu từ khi gặp lại vầng trăng:
– Điệp từ “mặt”, lối chuyển nghĩa độc đáo:
+ Diễn tả giây phút soi chiếu, giao hòa giữa con người và vầng trăng.
+ Soi vào trăng để con người nhận ra mình và nhận ra cả sự đổi thay của mình.
– “Rưng rưng”: là những cảm xúc đang ùa về trong giây phút con người nhận ra vầng trăng tri kỉ của đời mình -> để rồi thức tỉnh.
– “Đồng, bể, sông, rừng”:
+ Xóa đi thời gian, không gian, đưa con người về quá khứ.
+ Kéo trăng và người xích lại gần nhau.
+ Để trăng vẫn vẹn nguyên là tri kỉ.
+ Để con người nhận ra sự nông cạn, thờ ơ, bạc bẽo của chính mình.
* Càng thức tỉnh sâu sắc hơn khi:
– “Trăng”:
+ “tròn vành vạnh”: ẩn dụ cho nghĩa tình không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn của nhân dân, đất nước.
+ “im phăng phắc”: bao dung, độ lượng và nghiêm khắc -> cái im lặng chứa đựng lời nhắc nhở, cảnh báo, thức tỉnh con người.
– Người “giật mình” -> thức tỉnh:
+ Nhận ra những cám dỗ vật chất khiến con người đánh mất đi những giá trị tinh thần đẹp đẽ, khiến tâm hồn họ trống rỗng, nghèo nàn.
+ Nhận ra: không được lãng quên quá khứ, không được thờ ơ, bội bạc với nghĩa tình sâu nặng, thiêng liêng.
+ Biết trở về nâng niu, trân trọng quá khứ; biết sống ân nghĩa, thủy chung.
->Với khoảnh khắc giật mình, nhà thơ đã gieo vào lòng người đọc niềm tin và sức sống mãnh liệt của lương tri con người.
=> Nhận xét
– Nội dung:
+ Lời nhắn gửi con người không được lãng quên quá khứ gian khổ mà sâu đậm nghĩa tình.
+ Lời nhắc nhở về nghĩa tình thiêng liêng của nhân dân, đạo lí uống nước nhớ nguồn.
– Nghệ thuật:
+ Thể thơ ngũ ngôn với nhiều sáng tạo độc đáo.
+ Sự kết hợp hài hòa giữa chất tự sự và trữ tình.
+ Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, gần gũi mà giàu sức gợi.
+ Giọng điệu tâm tình thấm thía, khi thì thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm lắng, suy tư.
b. Đoạn trích Đồng chí
Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí:
* Được xây dựng trên nền một hoàn cảnh khắc nghiệt:
– Thời gian, không gian: rừng đêm hoang vu, lạnh lẽo.
– Không khí căng thẳng trước một trận chiến đấu.
-> Tâm hồn họ vẫn bay lên với hình ảnh vầng trăng nơi đầu súng.
-> Họ vẫn xuất hiện trong tư thế điềm tĩnh, chủ động “chờ giặc tới”.
=> Nhờ tựa vào sức mạnh của tinh thần đồng đội. Họ “đứng cạnh bên nhau” và trở thành một khối thống nhất không gì lay chuyển nổi.
* Được biểu hiện qua một hình ảnh thơ độc đáo, đầy sáng tạo: “Đầu súng trăng treo”:
– Vốn là một hình ảnh thơ được cảm nhận từ thực tiễn chiến đấu.
– Song hình ảnh này mang nhiều ý nghĩa biểu tượng phong phú:
+ Gợi liên tưởng: chiến tranh – hòa bình, hiện thực – ảo mộng, kiên cường – lãng mạn, chất chiến sĩ – chất thi sĩ.
+ Gợi vẻ đẹp của tình đồng chí sáng trong, sâu sắc. Sự xuất hiện của vầng trăng là một bằng chứng về sức mạnh kì diệu của tình đồng đội. Tình cảm ấy giúp tâm hồn người lính bay lên giữa lúc gay go, khốc liệt của chiến tranh.
+ Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính – một tâm hồn luôn trong trẻo, tươi mát dẫu phải băng qua lửa đạn chiến tranh.
+ Gợi vẻ đẹp tâm hồn dân tộc Việt Nam – một bàn tay giữ chắc cây súng mà trái tim luôn hướng đến những khát vọng thanh bình.
=> Nhận xét
– Nội dung: Bài thơ thể hiện chân thực, cảm động một tình cảm lớn mang tính thời đại, đó là tình đồng chí bền chặt, thiêng liêng của những người lính cách mạng. Qua đó tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh người lính thời kì đầu chống Pháp.
– Nghệ thuật: Lối miêu tả chân thực, tự nhiên; từ ngữ, hình ảnh giản dị và giàu sức gợi, cảm xúc dồn nén.
c. Suy ngẫm về giây phút con người đối diện với vầng trăng
– Giống nhau:
+ Vầng trăng là người bạn thủy chung, tình nghĩa.
+ Vầng trăng luôn bên cạnh con người, nâng đỡ con người trong những phút khó khăn, đưa đường dẫn lối con người trở về với những giá trị nhân văn tốt đẹp.
– Khác nhau
+ Đồng chí: vầng trăng là người đồng chí, là người bạn, là biểu tượng của hòa bình, tự do.
+ Ánh trăng: vầng trăng mang ý nghĩa thức tỉnh, giúp con người sống với những giá trị đẹp đẽ của dân tộc “Uống nước, nhớ nguồn”
III – Kết bài
Đánh giá về giá trị của cách miêu tả hình tượng ánh trăng qua hai bài thơ.
Bài văn tham khảo
Có thể nói trăng là sự kết tinh của những gì đẹp nhất, tinh túy nhất, vẻ đẹp của nó đủ để làm mê đắm tâm hồn dào dạt cảm xúc của các thi nhân. Trăng như một người bạn hữu gắn bó bền chặt với con người, là thú vui để họ đăng lầu vọng nguyệt, đàm đạo thi ca. Ánh trăng dát vàng lung linh ánh sáng dịu nhẹ ấy tỏa lan mọi nẻo đường, nó như chạm đến cả tâm hồn thi nhân. Bởi vậy mà trăng luôn là bến đợi, bến chờ của nhiều tác giả. Họ đã đi sâu vào khám phá mọi khía cạnh trong vẻ đẹp của ánh trăng bằng sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc. Và sự khám phá ấy như được phô diễn, được thấm nhuần qua từng câu thơ, từng trang viết. Hình ảnh Ánh trăng đã đi vào thơ ca với vẻ đẹp vĩnh hằng, giờ đây nó như hiện hữu bất diệt trong các bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Đó đều là những thi phẩm tràn ngập ánh trăng.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ra đời năm 1948, những năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ. Những người lính của “Đồng chí” là những người lính chống Pháp, họ đến với kháng chiến từ màu áo nâu của người nông dân, từ cái nghèo khó của những miền quê lam lũ. Đây là thời điểm người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu, những ngày tháng gian khổ của họ gắn liền với vầng trăng.
Còn Ánh trăng của Nguyễn Duy ra đời năm 1978, thời điểm chiến tranh đã kết thúc 3 năm. Từ đó đặt ra nhiều điều suy ngẫm trong mối quan hệ giữa người lính và vầng trăng.
Hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như vậy tất yếu dẫn đến sự khác nhau về biểu tượng vầng trăng ở hai bài thơ. Vầng trăng của Đồng chí là vầng trăng của hiện tại, vầng trăng của Ánh trăng là vầng trăng của quá khứ xuyên qua thực tại.
“Đầu súng trăng treo” là câu kết bài thơ Đồng chí. cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng.
Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh tưởng là đốì lập nhau đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hòa hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu gian khổ, hi sinh, là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ thơ mộng, dịu dàng và lãng mạn. Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ hi sinh. Súng và trăng: cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí. Chính Hữu đã thành công với hình ảnh “đầu súng trăng treo” – một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm.
Ánh trăng và đầu súng song hành với nhau như tình đồng chí vậy, tạo nên sự hài hoà về chất chiến sĩ và thi sĩ trong lòng người lính. Đó là một nét đẹp đầy mới mẻ. Trong gian khổ người lính vẫn tìm thấy những vẻ đẹp bình dị nhất. Vầng trăng giờ đây trở thành khát vọng, lí tưởng và niềm tin của người chiến sĩ để vững tâm thực hiện nhiệm vụ của mình. Súng và trăng là tình đồng chí, là tình thân như hai mà một – cứng rắn mà dịu dàng, thực tại và lãng mạn, ý chí và lí tưởng.
Nếu như “Đầu súng trăng treo” trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ thì “ánh trăng” của Nguyễn Duy còn là những những triết lý nghĩa tình.
Đến với thơ Nguyễn Duy, vầng trăng cũng mang đầy dấu ấn và tính triết lí sâu sắc. Vầng trăng đã gắn liền với tác giả trong suốt những năm tháng của cuộc đời. Đó là vầng trăng cùng với những ngày tháng tuổi thơ êm đềm bên chị Hằng, chú cuội, là vầng trăng của những đêm rằm Trung thu toả sáng một khoảng trời. Vầng trăng cũng đã cùng tác giả bước qua những ngày tháng chiến tranh oanh liệt, nơi chiến trận xa gia đình và người thân, ánh trăng thở thành người bạn tri kỉ soi sáng mọi bước đường của cuộc chiến đấu gian khổ. Trăng trở nên đẹp đẽ và gắn bó với tác giả biết bao. Vẻ đẹp của vầng trăng thiên nhiên đã gợi nên trong tác giả những tình cảm gần gũi và ngọt ngào, trăng song hành với thiên nhiên và con người một cách hồn nhiên, chẳng màng lo toan tính toán. Cũng bởi vậy mà trong lòng tác giả lúc này dành cho vầng trăng ấy một vị trí đặc biệt, một tình cảm rất đáng trân trọng, ngỡ mãi mãi cũng chẳng thể nào phải dấu đi hình ảnh ấy.
“Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
Nhưng, khi hoà bình lập lại, khi mà cuộc sống hiện đại với những đèn điện, với những trang thiết bị tiện nghi hơn thì tình cảm ấy trong tác giả nhạt phai đi hay thậm chí chìm vào quên lãng. Ánh trăng như một “người dưng” đã từng gặp gỡ. Và có lẽ cũng bởi vậy, khi đèn điện tắt, cánh cửa sổ được mở ra chào đón ánh sáng của vầng trăng tròn vành vạnh cũng là lúc tác giả giật mình thổn thức. Bao nhiêu quá khứ nghĩa tình với vầng trăng dường như hiện ra trước mắt, tuổi thơ ùa về, những năm tháng chiến đấu bên vầng trăng ùa về, người bạn tri kỉ trước mắt ấy khiến tác giả bất ngờ, hoảng hốt và ân hận.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là sông là bể
Như là sông là rừng”
Trăng vẫn cứ như vậy, âm thầm lặng lẽ dõi theo ta mỗi bước đường. Chẳng trách móc nhưng vẫn khiến lòng người phải thổn thức nghĩ suy: “Trăng cứ tròn vành vạnh
Kẻ chỉ người vô hình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
Vầng trăng mang nhiều tầng nghĩa, chứa đựng những giá trị triết lí sâu sắc. Nó không chỉ là một vầng trăng đơn thuần giữa bầu trời đêm mà gợi cho chúng ta về đạo lí sống ở đời, hãy sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ, đừn vì những thứ mới mẻ mà vọi quên đi quá khứ nghĩa tình.
Cả Chính Hữu và Nguyễn Duy đều viết về hình ảnh ánh trăng. Tuy cách biểu đạt và tư tưởng có phần khác nhau nhưng đều ca ngợi những vẻ đẹp ẩn sau vẻ bình dị của vầng trăng.