Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

I/ TIỂU DẪN

1/ Tác giả

a/ Cuộc đời

–  Tác giả Nguyễn Dữ sống khoảng thế kỉ XVI

– Quê quán: xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

– Xuất thân trong gia đình khoa bảng. Cha từng đỗ Tiến sĩ dưới triều Lê Thánh Tông.

– Là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

– Đỗ Hương Cống, ra làm quan một thời gian ngắn sau đó từ quan về ở ẩn ở Thanh Hóa, lấy cớ là phụng dưỡng mẹ già.

b/ Sự nghiệp sáng tác

– Để lại tập truyện “Truyền kì mạn lục” (ghi chép tản mạn về những chuyện kì lạ lưu truyền trong dân gian) – áng thiên cổ kì bút.

2/ Tác phẩm

a/  Thể loại “truyền kì”:

– Truyền kì là thể văn xuôi tự sự thời trung đại, phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường.

– Đặc trưng:

+ Thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần, ma quỷ có sự tương giao à tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của thể loại này.

+ Đằng sau những yếu tố kì lạ, hoang đường, những chi tiết phi hiện thực là cốt lõi của hiện thực và quan niệm, thái độ của tác giả.

b/  Xuất xứ: nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”

– Gồm 20 truyện ngắn – nửa đầu thế kỉ XVI

– Nội dung:

+ Vạch trần, phê phán những tệ trạng của xã hội phong kiến đương thời.

+ Sự đồng cảm, thương xót với số phận bi thảm của con người nhỏ bé trong xã hội, trước những bi kịch tình yêu mà thiệt thòi thường rơi vào người phụ nữ.

+ Thể hiện tinh thần dân tộc, bộc lộ niềm tự hào về nhân tài, văn hóa nước Việt, đề cao đạo đức, nhân đạo, thủy chung và khẳng định quan niệm sống lánh đục về trong của lớp trí thức ẩn dật đương thời, trong đó có tác giả.

– Nghệ thuật: mẫu mực của thể loại truyền kì

Tuy tác giả chỉ khiêm tốn đặt tên cho tác phẩm của mình là ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền trong dân gian nhưng sự gia công, gọt giũa, sáng tạo của tác giả là rất lớn.

c/ Bố cục:

– Phần 1: từ đầu đến “…. chàng vẫn vung tay không cần gì cả”: Ngô Tử Văn đốt đền tên tướng giặc họ Thôi.

– Phần 2: tiếp theo đến “…. thầy cũng khó lòng thoát nạn”: Cuộc gặp gỡ giữa Ngô Tử Văn với tên tướng giặc họ Thôi và với vị Thổ công.

– Phần 3: tiếp theo đến “…Còn ngôi mộ của tên tướng giặc kia thì tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy”: Cuộc đấu tranh giành công lí của Tử Văn ở âm cung.

– Phần 4: còn lại: Ngô Tử Văn được giữ chức phán sự đền Tản Viên.

II/ TÌM HIỂU TÁC PHẨM

1/ Nhân vật Ngô Tử Văn

a/ Sự xuất hiện gián tiếp của nhân vật

Ở phần mở đầu của câu chuyện:

– Qua lời giới thiệu của tác giả: “Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được…”

– Qua lời nhận xét của những người cùng thời: “…vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”

=>Tạo ấn tượng về nhân vật.

b/ Sự xuất hiện trực tiếp của nhân vật

– Nhân vật xuất hiện trực tiếp qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, giống như minh chứng cho những lời giới thiệu, nhận xét ở trên.

  • Sự kiện 1: Ngô Tử Văn đốt đền của tên tướng giặc họ Thôi

– Sự kiện: Vào cuối đời nhà Hồ, có tên tướng giặc Bách hộ họ Thôi của giặc Minh (Bách hộ là chức quan võ chỉ huy 100 quân). Tên giặc này tử trận gần đền miếu của vị thổ công nước Việt , hắn cướp đền của Thổ công ,  tác oai tác quái trong nhân dân. Ngô Tử Văn đốt đền, tiêu trừ hiểm họa cho nhân dân.

 => Đánh giá về nhân vật Tử Văn:

–  Đây là một hành động dũng cảm: trong khi tất cả mọi người ai cũng lắc đầu, lè lưỡi, can ngăn, lo sợ cho Tử Văn thì chàng là người trong cuộc lại “vung tay không cần gì cả”. Vì đây là việc nghĩa nên không thể không làm.

–  Đây không phải là biểu hiện của sự hung hăng, liều lĩnh nhất thời vì Tử Văn có sự chuẩn bị: tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi mới thực hiện châm lửa đốt đền.

=> Tử Văn tin tưởng vào hành động của mình là chính nghĩa.

=> Chính hành động khấn trời của chàng nói lên mong muốn nhận được sự phù trợ của thần linh.

–  Đây không phải là hành động đả phá, bài trừ mê tính dị đoan mà chỉ là muốn hủy diệt nơi nương tựa của hồn ma tên tướng giặc.

  • Sự kiện 2: Cuộc gặp gỡ với tên hung thần

– Sự kiện: Sau khi đốt đền, Ngô Tử Văn lên cơn sốt nóng, sốt rét  rồi gặp hồn ma tên tướng giặc giả danh tên cư sĩ tìm đến.

+ Hắn đã dùng nguyên lí đạo Nho để buộc tội “Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách vở của thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn hủy tượng, đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện” è buộc tội theo nguyên lí của đạo nho thì Tử Văn là người có tội.

+ Lấy oai linh của quỷ thần để hăm dọa: “biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy  đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ” è đe dọa nếu không dựng lạo đền sẽ chết như Cố Thiệu.

Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng, tự nhiên

=>Đánh giá về Tử Văn:

Thái độ ung dung, thản nhiên, coi thường lời buộc tội và đe dọa của Tử Văn không phải là bất cần, liều lĩnh mà là thái độ tự tin của người nắm trong tay sức mạnh của chính nghĩa.

Câu hỏi trước vị thổ thần “Liệu hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là biểu hiện của sự hoang mang, sợ hãi mà là sự mưu trí, muốn biết rõ về kẻ thù là cơ sở để có thể giành chiến thắng.

  • Sự kiện 3: Bị đưa xuống cõi âm

–         Sự kiện: Tử Văn nhất quyết không dựng lại đền cho hồn ma tên tướng giặc,  đến đêm bệnh càng ngày càng nặng thêm, thấy có hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành về phía Đông, giải qua cõi âm có gió tanh sóng sám, hơi lạnh thấu xương, có đến mấy vạn quỷ dạ xoa đều mắt xanh, tóc đỏ, hình dáng nanh ác.

Tử Văn kêu to đòi xử công bằng:

-Diêm Vương tưởng Tử Văn có tội đã dùng uy lực của kẻ bề trên để quát mắng, đe dọa, buộc tội Tử Văn.

-Tử Văn vẫn rất cứng cỏi tâu trình, kể lại đầu đuôi sự việc, lời rất cửng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào

-Diêm Vương cho đi chứng thực lời Tử Văn nói và xử án công bằng.

=>Đánh giá về Tử Văn:

–  Tử Văn sở dĩ có thể cứng cỏi, bình tĩnh và can đảm như vậy là nhờ sự tiếp sức của vị thổ thần đất Việt. “Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả.”

Đây chỉ là yếu tố thứ yếu vì chính vị Thổ thần đã phải nương tựa ở đền Tản Viên, ẩn nhẫn ngồi xó một nơi đã nhiều năm.

Thái độ đó có được chủ yếu là do sự dũng cảm trong bản tính của Tử Văn.

Thái độ đó có được xuất phát từ khát vọng muốn thực thi công lí, biến thành quyết tâm sắt đá để vạch mặt tên hung thần.

c/Chiến thắng cuối cùng

–         Diệt trừ tận gốc cái ác, mang lại an lành cho nhân dân

+ Cái ác: các phán quan hoặc bị lấp tai che mắt, hoặc ăn của đút lót… bị Diêm Vương mắng mỏ, kết tội.

“Lũ các ngươi chia tòa sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao hết được.”

+ Tên hung thần họ Thôi bị đày xuống ngục Cửu U. Theo quan niệm xưa, ngục Cửu U ở dưới tầng đất sâu nhất (tầng thứ chín), tối tăm nhất, dùng để giam giữ những kẻ khi sống gây nhiều tội ác.

=>Hình phạt nặng nề nhất cho tội ác ghê gớm nhất.

Niềm tin vào chính nghĩa nhất định thắng gian tà, gieo gió nhất định phải gặt bão.

–         Diệt trừ tận gốc thế lực xâm lược tàn bạo:  Hồn ma tên Bách hộ họ Thôi:

+        Khi còn sống là tên tướng giặc cướp nước

+        Khi chết: hồn ma xâm chiếm đền miếu, tác oai tác quái, gây nhũng nhiễu cho nhân dân.

+ Khôi phục lại danh vị cho vị Thổ thần nước Việt.

=>Tác giả tiếp tục thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc

–         Bản thân Tử Văn được đền bù xứng đáng:

+ Đươc Diêm Vương sai lính đưa trở về cõi dương thế

+ Xét Tử Văn có công trừ hại ,  được chia một nửa xôi lợn do dân cúng tế với vị Thổ thần.

+ Được vị Thổ thần tiến cứ giữ chức phán sự đền Tản Viên

khẳng định đạo lí ở hiền gặp lành

khơi gợi niềm tin với người đọc.

2/ Bức tranh hiện thực và tiếng nói phê phán hiện thực

a/ Bức tranh hiện thực

– Bối cảnh câu chuyện:

+ Lai lịch của hung thần: cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang cướp nước à Có tên bộ tướng của Mộc Thạnh – Bách hộ họ Thôi

+  Thời điểm của câu chuyện: thời kì giặc Minh sang xâm lược nước ta (1407 – 1427)

+ Tử Văn nhận chức phán sự: có người quen nhìn thấy Tử Văn vào năm Giáp Ngọ (1417)

Bối cảnh: đầu thế kỉ XV

–         Thời điểm viết tác phẩm: Nguyễn Dữ viết tác phẩm vào nửa đầu thế kỉ XVI:

+ Xã hội phong kiến bắt đầu đi vào suy thoái

+ Nội chiến Lê – Mạc

Xã hội rối ren, bất ổn, chứa đựng rất nhiều bất công, ngang trái.

Chính tác giả phải cáo quan về ở ẩn

Thể hiện thái độ bất hợp tác với xã hội đương thời.

Mượn bối cảnh của xã hội thế kỉ XV nhưng thực chất tác giả muốn phơi bày hiện thực xã hội mà ông đang sống – đầu thế kỉ XVI với đầy những bất công ngang trái: Kẻ ác thì lộng hành, sung sướng; người ở hiền, lương thiện lại phải chịu oan khuất.

+ Kẻ ác: tên hung thần đã cướp đền miếu, giả mạo tên họ của vị Thổ thần nước Việt,  được hưởng tất cả quyền lợi của vị Thổ thần; hưng yêu tác quái trong dân gian , đẩy dân vào tình cảnh khốn khổ.

+ Người lương thiện: vị Thổ thần làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lý Nam Đế, chết vì việc cần  vương, giúp dân đã hơn nghìn năm nay, nhưng bị đánh đuổi nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm.

Tử Văn chính vì cương trực thẳng thắn, thấy sự tà gian không thể để yên nên đã bị đẩy xuống âm phủ. “Tội sao ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm”.

+ Thánh thần ăn của đút để bênh vực cho kẻ ác: Đền miếu đều tham của đút, bênh vực cho hung thần , rễ ác mọc lan.

Vị Thổ thần phải ẩn nhẫn, ngồi xó một nơi.

+ Diêm Vương và các phán quan đại diện cho công lí bị lấp tai, che mắt.

Khi Tử Văn xuất hiện thì lập tức bị kết tội, thể hiện qua lời nhận xét hồ đồ của Diêm Vương “Kẻ kia là một cư sĩ, trung thần lẫm liệt, có công với tiên triều, nên hoàng thiên cho được huyết thực ở một ngôi đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?”

+ Dối trá, cạm bẫy

b/ Tiếng nói phê phán

–         Hồn ma tên tướng giặc bại trận: tham lam, quỷ quyệt, hung ác

+ Khi sống, là tướng giặc cướp nước.

+ Khi chết, hồn ma vất vưởng ở nước Nam vẫn không từ bỏ giã tâm xâm lược, đã chiếm đền miếu, giả danh lương thần nước Việt.

+ Khi Tử Văn châm lửa đốt đền đã tìm đến, dùng nguyên lí đạo nho để kết tội, dùng oai linh thánh thần để hăm dọa.

->Kiện ở âm phủ, đẩy Tử Văn vào cõi chết – tội sâu ác nặng.

+ Khi xuống dưới âm phủ, trước Diêm Vương đã buộc tội Tử Văn: “Ấy là trước Vương phủ mà hắn còn ghê gớm như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tác. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu hắn sợ gì mà không dám cho một mồi lửa”.

Sau đó xoa dịu khi Tử Văn đưa ra lí lẽ và chứng cứ, tên hung thần bị kết tội, đày xuống ngục Cửu U.

–         Thánh thần ở cõi âm:

+ Tham lam, bao che cho cái ác hoành hành: những thánh thần ở các đèn miếu gần quanh đền của vị Thổ thần

+ Người nắm giữ cán cân công lí làm việc quan liêu, không biết sự thực, bị lấp tai che mắt.

Đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn cùng.

Bài học cho những người nắm chức quyền trong tay

III.     TỔNG KẾT

1/ Giá trị nội dung

–         Đề cao tinh thần khảng khái, cương trực dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn – một trí thức nước Việt.

–         Thể hiện niềm tin vào công lí, chính nghĩa nhất định thắng gian tà.

2/ Đặc sắc nghệ thuật

–         Sử dụng kết hợp yếu tố kì và yếu tố thực

+ Yếu tố kì ảo -> tăng sức hấp dẫn

+ Yếu tố thực -> tăng sức thuyết phục cho các sự kiện và nhân vật được kể.

–         Xây dựng cốt truyện giàu kịch tính à  tạo sức lôi cuốn.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *