Ý kiến của Nguyễn Đức Quyền (…) Câu thơ hai chữ Đồng chí gần như đứng giữa bài thơ, riết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong, nửa trên là một mảng quy nạp (như thế này là đồng chí), nửa dưới là một diễn dịch (đồng chí còn là như thế này nữa) một kết cấu chính luận cho một bài thơ trữ tình lạ. Chủ đề đồng chí lại hiện lên trong từng cấu trúc ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế bào thơ. Tôi với anh khi thì xếp dọc: Quê hương anh nước mặn đồng chua / Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá , khi thì xếp ngang: Tôi với anh đôi người xa lạ , Khi thì điệp điệp (nét thẳng của ý chí và nét cong của tình cảm): Súng bên súng, đầu sát bên đầu , để đến đêm rét trùm chung một cái chăn thì nhập lại thành đồng chí. Và cái chăn đắp lại thì tâm sự mở ra. Họ soi vào nhau, anh hiểu tôi, tôi hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay (…) Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế là để dựa vào nhau mà đi đến chiều cao này: Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo. Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí, nắm cả bàn tay và ấm cả đôi bàn chân là một cặp đồng chí. Đêm nay, rừng hoang sương muối “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” là một cặp đồng chí. Và lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí: Đầu súng trăng treo. Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được cái cụ thể và gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng, cứng rắn và hiền dịu, súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng là biểu hiện cao cả của tình đồng chí: (Nguyễn Đức Quyền, Báo Văn nghệ số 30/1134 ngày 27/7/1985)
Ý kiến của Vũ Nho “Những dòng thơ cuối cùng cũng như một tượng đài sừng sững cho tình cảm đồng chí thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ thiên nhiên, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là những hình ảnh thực trong những đêm phục kích giặc của tác giả, nhưng chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng chiến đấu của quân đội cách mạng đã tạo cho hình ảnh có một vẻ đẹp khái quát, tượng trưng”. (Vũ Nho, Để cảm hiểu và thưởng thức những bài thơ ở lớp 8 và lớp 9, 1991)
Nhà thơ Chính Hữu tâm sự về bài thơ “Đồng chí”
Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù ở Việt Bắc và hành quân từ Bắc Kạn đến Thái Nguyên.Chúng tôi phục kích từng chăng đánh, truy kích binh đoàn Beaufré.Khi đó tôi là chính trị viên đại đội.Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khố.Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phái có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại điều trị; đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khiốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí.
Bài thơ Đồng chí được làm sau bài thơ Ngày về.Tôi thấy lúc này làm thơ cao xa quá là vô trách nhiệm với những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình.Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu chỉ có một chỗ dựa duy nhất dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội, không có đồng đội tôi không thể nào làm tròn được trách nhiệm, không có đồng đội tôi cũng đã chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình
Bài thơ viết có đối tượng. Tôi hiểu và quý mến người đồng đội của tôi nên tiếng nói thơ ca giản dị và chân thật. Tuy nhiên, đồng chí không phải là bài thơ nôm na.
Trước Cách mạng, tôi có làm một ít thơ.Trong thơ, tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa.Tôi mong có được sự hàm súc, cô đọng của lời thơ, và hình ảnh thơ phải mang tính tạo hình.Tôi là lính của Trung đoàn Thù đô.Tôi vào bộ đội ngày 19 – 12 -1946. Bước vào cuộc kháng chiến, tuổi trẻ nhiều lúc bốc men say. Bài Ngày về phản ánh một mặt khía cạnh của tâm trạng tôi và bài Đồng chí cũng phản ánh một mặt của tình cảm tôi. Bài thơ được làm nhanh.Tôi làm để tặng bạn. Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh “nước mặn đồng chua” hoặc đất cằn cỗi sỏi đá. Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là của tôi.Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật… bạn và tôi đều cùng trải qua.Trong những hoàn cảnh đó, chúng tôi là một, gắn bó trong tình đồng đội.
Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm, ít có những chuyện đùng đoàng, chiến đấu. Tôi làm bài Đồng chí cũng là tình cảm chân tình tự nhiên không có sự gò ép, gắng gượng nào và nó cũng nằm trong tư duy thơ ca quen thuộc của tôi.Bài thơ có những hình ảnh cô đúc như đầu súng trăng treo. Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh đầu súng là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương và vầng trăng tượng trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viết, còn hình tượng thơ có thể gợi cho người đọc nghĩ thế là tùy ở các bạn.Vấn đề đối vối tôi đơn giản hơn. Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng.Đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh “đầu súng trăng treo”. Lúc đầu tôi viết là “đầu súng mảnh trăng treo” sau đó bớt đi một chữ. “Đầu súng trăng treo”, ngoài hình ảnh bốn chữ này còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn ; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật. Rừng mùa đông ở Việt Bắc rất lạnh, nhất là vào những đêm có sương muối. Sương muối làm buốt tê da như những mũi kim châm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng đến mất cảm giác. Tất cả những gian khố của đời lính trong giai đoạn này thật khó kế hết nhưngchúng tôi vẫn vượt lên được nhờ ở sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội trong quân ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động, bồi hồi. (Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội,1994)