Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

   ““Kiều ở lầu Ngưng Bích”là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều”.  (sách Ngữ văn 9, tập I, Trang 96)

Hãy phân tích đoạn trích để làm sáng tỏ ý kiến trên.

Bài làm

Nguyễn Du- đại thi hào dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. “Truyện Kiều” là tập đại thành của ông, kết tinh những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đoạn thơ cho ta thấy tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm ở phần thứ hai : Gia biến và lưu lạc. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ Kiều chết đi thì  “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma” nên vờ hứa đợi khi Kiều bình phục sẽ gả chồng ở nơi tử tế rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích đợi thực hiện âm mưu mới tàn bạo hơn, đê tiện hơn.

Đoạn trích mở đầu bằng khung cảnh mông mông, hoang vắng ở lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”

“Khóa xuân” đó là cách nói mỉa mai của tác giả, thực chất đây là những ngày Kiều bị Tú Bà giam lỏng. Vừa trải qua những đau khổ hãi hùng  nay lại bị nhốt ở nơi vắng vẻ, Kiều cảm thấy cô đơn, chán ngán.  Cảnh non xa, trăng gần gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích chơ vơ, cao ngất nghểu giữa mêng mông sông nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chung quanh là cả một không gian bát ngát, tất cả đều xa vời:

“Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”

Chỉ với mười bốn chữ mà chữ nào cũng gợi lên thời gian, không gian mênh mông, hoang vắng. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Kiều rơi vào hoàn cảnh cô đơn, rợn ngợp, nàng không có chi làm bầu bạn, tâm trạng Kiều bị dồn vào đến tận cùng của nỗi buồn đau, tuyệt vọng:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Kiều sống một mình giữa cái lầu chơ trọi, giữa thời gian, không gian mêng mông hoang vắng. Cái lầu chơ trọi đã giam một thân phận chơ trọi, không một bóng nguwòi, không sự giao lưu giữa người với người. “Bẽ bàng” đó là tâm trạng vừa chán ngán, vừa xấu hổ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Ở đó, sớm Kiều làm bạn với mây, đêm, nàng làm bạn với ngọn đèn. Dù sớm hay đêm, nàng luôn phải đối diện với nỗi cô đơn, buồn tủi đến hãi hùng như vậy.

Trong hoàn cảnh cô đơn bủa vây như vậy, Kiều nhớ đến người thân. Tám câu thơ tiếp theo của đoạn trích đã miêu tả nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Thúy Kiều. Đầu tiên, nàng nhớ tới Kim Trọng- nhớ tới mối tình đầu trong sáng:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những dày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Không phải Kiều không thương nhớ mẹ cha, nhưng sau gia biến, nàng coi như đã làm tròn bổn phận làm con với cha mẹ. Bao nhiêu việc xảy ra, giờ đây khi một mình ở lầu Ngưng Bích nàng nhớ về người yêu trước hết. Nàng coi mình là người đã phụ tình Kim Trọng. Nàng nhớ đến lời thề nguyền đôi lứa, nàng và Kim Trọng đã cùng nhau nâng chén rượu thề hẹn ước dưới ánh trăng. Giờ đây nàng tưởng tưởng, ở nơi xa Kim Trọng cúng đang hướng về mình, đang chờ mong tin tức mình. Nàng nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau đớn, xót xa. Câu thơ “ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” chúng ta có thể hiểu Thuý Kiều đau đớn vì tình yêu son sắt, trắng trong mà nàng dành cho Kim Trọng đã bị bọn buôn người dập vùi  hoen ố, làm sao có thể gột rửa sạch nỗi nhơ bẩn này hay chúng ta cũng có thể hiểu rằng đó là nỗi băn khoăn của Kiều khi tình yêu son sắt mà nàng dành cho Kim trọng sẽ không bao giờ có thể phai nhạt. Kiều không chỉ đâu đớn mà còn day dứt, hổ thẹn vì đã phị tình yêu, niềm tin, lòng mong mỏi, sự gửi gắm của Kim Trọng. Những chi tiết miêu tả nỗi dày vò, đau đớn đến xót xa của Kiều đã giúp ta hiểu được tấm lòng nàng. Các từ ngữ “tưởng”, “trông”, “chờ”, “bơ vơ”, “gột rửa”, “phai”,…. đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình trong sáng sâu nặng lời thề mà bị tan vỡ.

Nhớ về chàng Kim, Kiều lại nhớ về cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nông ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nghĩ đến cha mẹ, Kiều vô cùng thương xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà không được chăm nom. Nàng lo lắng không biết ai sẽ là người chăm nom cha mẹ lúc khuya sớm. Thành ngữ “quạt nông ấp lạnh” , điển cố “Sân Lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tưởng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, cha mẹ đã ngày một thêm già yếu. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian xa cáchbao mùa mưa nắng, vừa nói lên sức mạnh tàn phá của tự nhiên,của nắng mưa với cảnh vật và con người. Nhớ về cha mẹ Kiều luôn ân hận vì nàng cho rằng mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dưỡng của cha mẹ.

Chỉ bằng tám câu thơ mà Nguyễn Du đã miêu tả thật trọn vẹn nỗi nhớ của Thúy Kiều về Kim Trọng, về cha mẹ, người đã sinh thành và nuôi dưỡng mình khôn lớn. nỗi nhớ thật sâu lắng và da diết.

 Ở tám câu tơ cuối bài thơ, tâm trạng buồn cô đơn tủi nhục của Kiều lại càng thể hiện rõ nét qua bức tranh tâm trạng. Điệp ngữ “ buồn trông” xuất hiện ở đầu mỗi câu thơ khiến cho nỗi buồn như chất chồng mãi, mỗi câu thơ là một cảnh, một tâm trạng, nhưng tựu chung lại ấy vẫn là nỗi buồn đau, tuyệt vọn: thương mình, thương người thân, thương cho thân phận và duyên số của mình. Đây có thể xem là đoạn thơ hay nhất trong Truyện Kiều. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng buồn trông. Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng mà ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn cô đơn của kiếp người lưu lạc. “Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện thấp thoáng cánh buồm xa xa đầy ám ảnh, nhìn cảnh ấy Kiều lại nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi đất khách quê người.

“Buồn trông gió cuốn mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu.”

Những cánh hoa trôi như dự báo trước cho kiếp đời lưu lạc, lênh đênh của nàng. Kiều không biết cuộc đời nàng sẽ đi đâu, về đâu giữa dòng đời vô định ấy.  Nhìn ra xa, Kiều buồn trông về phía chân mây mặt đất, nàng chỉ thấy trên cái nền xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo , dầu dầu của nội cỏ. Màu sắc thê lương, tê tái ấy đã phản chiếu nỗi đâu tê tái của người con gái lưu lạc:

“Buồn trông nội cỏ dầu dầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Nhìn xa rồi lại nhìn gần, vừa buồn vừa lắng nghe, nàng lắng nghe tiếng gió, gió gào, gió cuốn mặt duềnh. Nghe tiếng ầm ầm của sóng đang bủa vây quanh ghế ngồi. Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, e sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của sóng và gió là dự báo cho những tai họa đang bủa vây, sắp giáng xuống người con gái nhỏ bé đáng thương Thúy Kiều:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh được quan sát từ xa đến gần,màu sắc chuyển từ nhạt đến đậm, về âm thanh tác giả miêu tả từ tính đến động. Nỗi buồn của nàng Kiều được miêu tả từ buồn man mác tăng dần lên nỗi lo âu, kinh sợ. Tất cả được miêu tả theo chiều tăng tiến, nó nhấn mạnh hơn cho nỗi buồn cô quạnh và thân phận đáng thương của nàng Kiều. Chỉ trong tám câu thơ nhưng điệp ngữ “buồn trông” xuất hiện tới bốn lần.  Càng buồn thì càng trông, càng trông lại càng buồn. Đó là nỗi buồn đau của kiếp người lưu lạc.

       “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật kết hợp bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều giúp ta hiểu thêm về Kiều, môt người tình chung thủy, một đứa con hiếu thảo và lòng một con người giàu lòng vị tha, khiến ta căm hận xã hội phong kiến bất công tàn bạo đưa đẩy con người tài hoa vào kiếp lầu xanh tủi hổ. Đồng thời  chứng tỏ được tài năng và trái tim biết sẻ chia, biết yêu thương của Nguyễn Du dành cho nhân vật và cho cuộc đời. Chính hồn thơ ấy, trái tim ấy đã đi vào tâm tưởng bao thế hệ, đưa chúng ta đến bao cảm xúc khác nhau, khiến ta chẳng thể nao quên như nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với đại thi hào này:

“Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân

Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều”

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *