I. Mở bài : Giới thiệu vấn đề nghị luận
Kim Lân là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam sau cách mạng. Ông được mệnh danh là con đẻ của đồng ruộng, một lòng đi về với đất, với người, gắn bó máu thịt với những người nông dân nghèo, những kiếp người chịu nhiều bần cùng, khốn khổ. Ông cũng là một nhà văn có trái tim yêu nước son sắt, một tấm lòng thiết tha với dân tộc. Bởi vậy mà những sáng tác của ông thường viết về những người nông dân có lòng yêu nước, yêu cách mạng sâu sắc. Nói đến các sáng tác của Kim Lân, ta không thể không kể đến truyện ngắn “Làng”. Tác phẩm đã khắc hoạ sinh động chân dung nhân vật ông Hai – một người nông dân chân chính với tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết và sự gắn bó máu thịt với cách mạng. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét qua đoạn trích kể cuộc trò chuyện giữa ông Hai với đứa con út : “Ông lão ôm thằng con út lên lòng… mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được đôi phần.”
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm
Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân được viết năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.Truyện thành công không chỉ bởi tài năng viết truyện của Kim Lân mà còn nhờ sự am hiểu người nông dân và thời kì lịch sử lúc bấy giờ. Nhà văn đã có lần tâm sự: “Cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã đưa vào “Làng”. Lúc ấy, Tây còn đóng ở cầu Đuống ,tôi về làng chơi mấy lần chứng kiến tận mắt thế nào là làng chiến đấu”. Truyện hấp dẫn bạn đọc ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong những tình huống đặc biệt cùng với cách viết đơn giản, ngôn ngữ mộc mạc, dân dã .
2. Khái quát nội dung đoạn trước đó.
Ở phần đầu của tác phẩm, người đọc đã được chứng kiến một ông Hai rất yêu và tự hào về làng của mình. Đi đâu ông cũng khoe về làng thế nên khi nghe tin làng theo giặc ông vô cùng bàng hoàng ,sửng sốt. Không tin đó là sự thật nhưng khi buộc phải tin ông đã vô cùng đau khổ, tủi nhục đến mức phải đi đến quyết định thù làng. Và để củng cố thêm niềm tin cho quyết định của mình, ông đã tìm đến thằng con út để trò chuyện.
3. Cảm nhận về ông Hai trong đoạn trích
a. Tại sao ông Hai chọn trò chuyện với con mà không phải ai khác?
Sẽ có không ít người đọc thắc mắc rằng tại sao ông Hai lại chọn trò chuyện với đứa con út – một đứa trẻ chưa hiểu chuyện gì, chưa biết gì về kháng chiến, về cách mạng. Trò chuyện với đứa con còn bé là cái cách để ông trải lòng mình, để tự minh oan cho mình và cũng là để ông có thêm niềm tin vào những điều mà ông đã chọn lựa. Xây dựng chi tiết này cho thấy Kim Lân thực sự rất am hiểu tâm lí của con người, nhất là người nông dân trong kháng chiến.
b. Trong cuộc trò chuyện ,ông vẫn hướng con về làng, về quê hương, nguồn cội:
Mặc dù cái làng mà ông rất mực tin yêu đã theo giặc, dù cho làng đã phản bội ông đến mức ông phải thù làng thế nhưng khi nói chuyện với con ông vẫn hỏi:“Thế nhà con ở đâu?Thế con có thích về làng chợ Dầu không?” Câu hỏi có vẻ ngô nghê mà ông biết trước được câu trả lời của con nhưng dường như ông vẫn muốn nghe . Hỏi con như vậy là ông vẫn muốn con nhớ về cội nguồn, gốc gác của mình. Muốn con hiểu rằng Chợ Dầu chính là quê hương của con, là nơi con được sinh ra và lớn lên, được yêu thương và che chở. Điều đó có nghĩa là dù đã thù làng nhưng trong sâu thẳm tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn dành cho làng một tình yêu tha thiết, mãnh liệt. Câu hỏi của ông với con cũng là cái cách ông kiểm tra tình cảm của mình. Nghe câu trả lời của con chắc ông vui lắm, vui vì dường như nó đã trùng với suy nghĩ của ông.Như vậy có thể khẳng định tình yêu với làng chợ Dầu trong chưa chết hẳn, chỉ có điều giờ đây đó là một tình yêu đau đớn,một bi kịch.
c. Nhưng hơn cả ở ông Hai là tình yêu đất nước và niềm tin dành cho kháng chiến.
Ông Hai yêu làng, ai cũng phải thừa nhận nhưng hơn cả ở nhân vật này là tình yêu đất nước và niềm tin dành cho kháng chiến. Điều đó cũng được bộc lộ một cách rõ nét trong cuộc trò chuyện của ông với con. Ông hỏi con tiếp : “Thế con ủng hộ ai?”. Câu trả lời của đứa con:” Ủng hộ Hồ Chí Minh Muôn năm” dường như đã hoàn toàn trùng khít với suy nghĩ và tình cảm của ông. Ông hãnh diện vì điều đó, ông tự hào về điều đó, ông hạnh phúc vô cùng. Nghe con nói vậy, nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ “ Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ”. Ông khóc vì hạnh phúc, khóc vì con còn rất nhỏ nhưng đã có tinh thần kháng chiến, đã có niềm tin bất diệt vào cách mạng, vào cụ Hồ. Ông lặp lại câu nói của con nhưng thực chất là để nói rõ lòng mình. Ông tin kháng chiến, tin cách mạng, ông sẵn sang hi sinh tình cảm riêng của mình vì tình cảm cao đẹp đó. Đến đây ta không chỉ trân trọng tình cảm của ông đối với làng quê đối với đất nước mà ta còn vui sướng tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, tự hào về dòng máu yêu nước luôn chảy trong trái tim mỗi con người Việt Nam, trong trái tim của ông và trong trái tim đứa con ông. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy, nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được đôi phần. Tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng nơi ông thật sâu sắc, mãnh liệt!
4. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
-Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc, qua đó, tính cách, phẩm chất của nhân vật nổi lên thật rõ ràng. Lối kể chuyện giản dị tự nhiên, gần gũi, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm cũng góp phần tạo nên một hình tượng chân thực và đẹp đẽ về người nông dân Việt Nam. Đoạn trích đã cho ta thấy sự phát triển trong nhận thức của người nông dân Việt Nam: tình yêu làng là cơ sở của tình yêu nước, yêu cách mạng song tình yêu nước vẫn bao trùm lên tất cả và là định hướng hành động cho họ.
III. Kết bài
Qua diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai trong đoạn trích, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý của người nông dân chất phác, thuần hậu. Nhà văn đã diễn tả sinh động và sâu sắc tình yêu làng, yếu nước, thủy chung với cách mạng và kháng chiến của ông Hai. Hiểu giá trị nhân văn cao đẹp của đoạn trích và tác phẩm, ta hiểu thêm sức mạnh dân tộc đã làm nên “trang lịch sử sáng lòa” từ những con người giản dị, mộc mạc nhưng nặng lòng với kháng chiến, với đất nước như ông Hai.