Dẫn chứng liên hệ cho các tác phẩm Ngữ văn 12

Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân

a. Dẫn chứng liên hệ phần mở bài

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Đó là những vần thơ đẹp mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cất lên khi nói về những dòng sông quê hương. Quê hương Việt Nam thật đẹp và yên bình, là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn nhà thơ thỏa sức sáng và cho ra đời những tác phẩm hay và ý nghĩa. Và Nguyễn Tuân – bậc thầy ngôn ngữ đã viết về con sông Đà một cách hết sức sáng tạo không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác mà còn là một sinh thể có hoạt động, tính cách và cá tính. Dòng sông Đà trong trích đoạn “Người lái đò sông Đà” hiện lên với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình….

b. Dẫn chứng liên hệ miêu tả vẻ đẹp trữ tình sông Đà

Ví dụ 1:

GS.TS Trần Đình Sử đã từng nói: “Màu sắc trong văn học chẳng những là phương tiện miêu tả thế giới, mà còn là phương tiện thể hiện cái nhìn nghệ thuật với cuộc đời”. Miêu tả về sắc nước sông Đà, Nguyễn Tuân đã tinh tế quan sát phát hiện màu nước sông thay đổi theo mùa. Quả thực là vẻ đẹp đa hình, đa sắc. Có thể nói rằng màu xanh là một trong những màu sắc chủ đạo của văn chương nghệ thuật, là biểu tượng của tình cảm sâu lắng, nhẹ nhàng, trong sáng mà tinh khiết… Đến với Nguyễn Tuân, sắc xanh ấy không còn là “Con sóng xanh lơ, mái rừng xanh đậm” như thơ của Tế Hanh mà đó là sắc xanh ngọc bích khi tiết trời xuân, gợi nên sự thanh cao, quý giá và êm đềm của Đà giang…

Ví dụ 2:

Nhà thơ Tố Hữu đã từng thảng thốt mà cất lên trước dòng sông:

Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Ở công trường mới dựng mái nhà son

Ôi đó là dòng sông bát ngát với thiên nhiên trù phú hoà với nhịp sống lao động say sưa. Đến với Đà giang, Nguyễn Tuân đã vẽ ra những tầm nhìn rất khác. Đà giang hiện lên với vẻ đẹp yên ả, thanh bình đến lạ… Vẻ đẹp hoang sơ cổ kính ấy tồn tại từ đời Lý đời Trần đời Lê toát lên dáng đứng sừng sững của lịch sử. Chính điều đó khiến cho Đà giang trở nên đặc biệt, độc đáo rất riêng, khác hẳn so với nhịp sống hiện đại.

Ví dụ 3:

Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về dòng sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông:”người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi”, từ đây, như đã tìm đúng đường về, dòng sông vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô kim long”. Vẻ đẹp mềm mại, nữ tính này của dòng sông Hương có nét rất giống với sông Đà. Dưới con mắt tài hoa đậm chất nghệ sĩ của bậc thầy ngôn ngữ Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên với mái tóc mềm mại uốn lượn quanh co tuôn chảy từ dãy núi hùng vĩ của biên giới Tây Bắc trôi chảy về đồng bằng, lặng lẽ hoà vào sông Hồng rồi đổ ra biển lớn…

c. Dẫn chứng liên hệ vẻ đẹp hung bạo của dòng sông Đà

Ví dụ 1:

Ca dao xưa có câu:

“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”

Ý là để nói sông Đà có nhiều thác dữ, nguy hiểm chồng chất khiến con người không khỏi lo lắng và khiếp sợ. Quả thực, phải đến sông Đà, hoà mình vào không gian thiên nhiên đại ngàn thì mới cảm nhận được hết vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông.

Ví dụ 2

Ta phải thẳng thắn mà công nhận rằng “Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh” (GS.Nguyễn Đăng Mạnh) vì quả thực Nguyễn Tuân rất dũng cảm khi “du ngoạn” Đà giang với cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, cảnh mặt ghềnh Hát Loong “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”… trùng trùng điệp điệp thác nước dữ với cạm bẫy rình rập. Tưởng chừng như chỉ cần con người ta sơ sẩy là chúng hăm he nuốt trọn vẹn miếng mồi thơm ngon và bổ béo.

d. Dẫn chứng liên hệ Hình tượng ông lái đò sông Đà

Ông lái đò được ghi tạc qua ngòi bút của Nguyễn Tuân là một người với ngoại hình cao to, gọn quánh như chất rừng chất mun. Ông hiện lên với biểu tượng của con người giàu trải nghiệm với nhiều năm gắn bó với sông Đà. Trong tận sâu tâm khảm của người lái đò, có lẽ Đà giang không chỉ là một người bạn đơn thuần mà còn là một người tâm giao, tri kỉ bởi lẽ chừng ấy năm gắn bó, ông hiểu sông Đà như hiểu chính bản thân mình vậy, ông làm chủ cuộc vượt thác như một người chỉ huy tài ba, chèo lái con thuyền một cách đầy chủ động, thông minh và khéo léo:

“Sống cuộc đời sông nước
Tôi lấy nước làm nhà
Nước là bầu là bạn
Tôi nhìn nước trên sông..”

(Trích Với sông Đà – Nhà thơ Vũ Quần Phương )

Vợ nhặt – Kim Lân

Dẫn chứng nhân vật bà cụ Tứ

Là một người mẹ hết mực yêu thương con.

Liên hệ với:

+ Người đàn bà hàng chài – “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu: Hi sinh tất cả và chịu mọi tổn thương về thể xác lẫn tinh thần chỉ đề mong con được hạnh phúc.

+ Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao: Bán cậu Vàng, ăn bả chó để không phạm đến nhà của con.

+ Hình ảnh người mẹ Việt Nam:

“Cả cuộc đời Mẹ một nắng hai sương
Lặng lẽ bước trên đường dù mưa gió
Bởi thương con…Mẹ lần mò vượt khó
Dù gian truân vàng võ chẳng nao lòng”.

Dẫn chứng nhân vật Thị

– Con người bị xóa mờ nhân thân: không có tên, tuổi cụ thể: Liên hệ với nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.

– Con người rơi vào bi kịch của phận người trong cơn đói: Liên hệ với:

– Nhân vật bà lão trong tác phẩm “Một bữa no” của Nam Cao: Khốn cùng vì miếng ăn, nó đày đọa con người ta đến mức tha hóa, biến chất. Bà lão ấy chẳng còn biết nhục là gì bởi bà nghĩ “Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói?”

– Sinh trong tác phẩm “Đói” của Thạch Lam: Cái đói khiến Sinh đánh mất lòng tự trọng, phải nhặt lại thức ăn kiếm từ những đồng tiền bẩn mà chính tay mình đã vứt đi.

Dẫn chứng xã hội trong “Vợ nhặt”

*Xã hội Việt Nam chìm trong nạn đói kinh hoàng, khủng khiếp năm 1945 – thời điểm mà dân ta chịu cảnh gông cùm, xiềng xích của cả thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đời sống người dân điêu đứng đến mức “người chết thây nằm còng queo bên đường, người sống chỉ còn là những cái bóng dật dờ lặng lẽ như những bóng ma”. Hay nói như cách của Bàng Bá Lân thì:

“Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma”

*Các em có thể liên hệ:

– “Chuyện cũ của Hà Nội” – Tô Hoài:

Về nạn đói, mỗi lần nhắc lại Tô Hoài vẫn bàng hoàng, kinh hãi đến nỗi chữ nghĩa run rẩy như thổi bay được. Để rồi một Hà Nội trong những năm tháng ấy được nhà văn khắc họa một cách chân thực đến rùng mình: “Càng phấp phỏng, càng hoảng hốt khi trông thấy lũ lượt người đói các nơi kéo vào… Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày đêm xe kéo xác chết lầm lũi qua”. Đau đớn hơn khi phải chứng kiến những đứa trẻ sống trong cảnh ấy chẳng khác nào một thứ hàng: “Lại thêm người đói các nơi ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhản người đem bán trẻ con. Ở làng tôi, người quảy trẻ con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, như thời thường mua bán gà lợn. Nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Bắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn khổ”.

– “Ô Cầu Dền” trong tập tản văn “Bát phố” – Bảo Sinh: Nhắc về nạn đói: “Năm 1945, đây là mả chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày, xe bò chở đầy xác chất trên phủ mảnh chiếu, chân tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, cẳng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả”.

– “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” – Văn Cao viết:

“Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói công yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo
Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực..”

Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài

Dẫn chứng 1
Nói về Mị, nhà văn Tô Hoài tâm huyết rằng: “Số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá.”

Dẫn chứng 2
“Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của “Vợ chồng A Phủ” (Phan Anh Dũng)

Dẫn chứng 3
“…Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”

Dẫn chứng 4
“Bản chất của văn chương Tô Hoài là phong cách, bút pháp đậm đà bản sắc dân tộc. Phẩm chất ấy là sự tích tụ của cả một đời gắn bó với đất nước và nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những con người lao động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam” (Hà Minh Đức)

Dẫn chứng 5
“Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.” (Tô Hoài)

Dẫn chứng 6
“Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ.” (Phạm Xuân Nguyên – Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội).

Dẫn chứng 7
Ông là cây đại thụ cuối cùng của lớp tác giả văn xuôi thời kì Cách Mạng.” (Hà Minh Đức)

Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu

Dẫn chứng 1
Trong một lần trả lời phỏng vấn đầu xuân của báo Văn nghệ vài năm 1986, Nguyễn Minh Châu đã bày tỏ rất rõ quan điểm của mình.

“Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống.”

Dẫn chứng 2
Nguyễn Minh Châu còn đòi hỏi rất cao về trách nhiệm của những người cầm bút.

“Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: Để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời, để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.”

Dẫn chứng 3
Đích đến cuối cùng của tác giả và tác phẩm luôn là con người, đặc biệt là những mảnh đời cơ cực đau khổ.

“Văn học và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.”

Dẫn chứng 4
“Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó.” NMC

Dẫn chứng 5
“Nhà văn là người cố gắng đi tìm những hạt ngọt ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người.” NMC

Dẫn chứng 6
“…Nhưng về một phía khác, cũng phải nói thật với nhau rằng: Mấy chục năm qua, tự do sáng tác chỉ có đối với lối viết minh họa, văn học minh họa, với những cây bút chỉ quen với công việc cài hoa, kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã có sẵn mà chúng ta quy cho đấy đã là tất cả hiện thực đời sống đa dạng và rộng lớn. Nhà văn chỉ được giao phó công việc như một cán bộ truyền đạt đường lối chính sách bằng hình tượng văn học sinh động, và do nhiều lý do từ những ngày đầu cách mạng, các nhà văn cũng tự nguyện tự giác thấy nên và cần làm như thế (thậm chí có phần nào các nhà văn mới đi theo cách mạng và kháng chiến còn coi đó là cái mới, là hoàn cảnh “lột xác”). Từ đấy rồi trở thành thói quen…” NMC

Dẫn chứng 7
Ông đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp văn học nước nhà nên suốt cuộc đời được nhiều giáo sư và đồng nghiệp đánh giá cao.

“Trong truyện của anh, mọi cái đã vỡ ra tạo nên những khoảng trống, phải nghi ngờ, phải nghĩ. “– Giáo sư Phong Lê

Dẫn chứng 8
Nhận xét của Nguyễn Khải làm cho vị trí người tiền trạm đổi mới của Nguyễn Minh Châu trở nên vững vàng hơn bao giờ hết.

“Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này.”

Dẫn chứng 9
Tô Hoài khẳng định Nguyễn Minh Châu là một tài năng xuất sắc.

“Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý.”

Dẫn chứng 10
Tác phẩm Nguyễn Minh Châu có tính giáo dục con người và tôn vinh những vẻ đẹp khuất lấp

Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu bao gồm Cửa sông, Những vùng trời khác nhau, Dấu chân người lính, Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong rừng ra, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Mảnh đất tình yêu, Chiếc thuyền ngoài xa, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ, Phiên chợ Giát, Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu toàn tập và Di cảo Nguyễn Minh Châu.

Sóng – Xuân Quỳnh

Dẫn chứng 1
Những bài thơ “mượn” sóng để nói về tình yêu:

Ta từng bắt gặp hình tượng sóng trong những câu ca dao xưa:

“Tình anh như sóng dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương”

Đến những câu thơ tài hoa bậc nhất của Nguyễn Du:

“Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”

Và sau này là những con sóng mê đắm, cuồng say tràn vào thơ của Xuân Diệu:

“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”

Một nhà thơ nước ngoài khác cũng viết về sóng:

“Ngây thơ em hỏi anh
Sao mặt hồ gợn sóng
Anh mỉm cười hờ hững
Vì gió cứ hôn bờ

Em nũng nịu ứ ừ
Khác cơ không phải thế
Sao chúng mình vẫn thế
Mà chẳng thấy sóng đâu

Anh ấp nhẹ mái đầu
Hôn môi em nồng cháy
Em ơi! Em có thấy
Sóng cuộn ở trong tim”

Dẫn chứng 2
Nói đến trạng thái mâu thuẫn, đối cực, thất thường của người con gái khi yêu trong hai câu thơ

“Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”, ta có thể liên hệ đến những vần thơ sau:

“Em bảo anh: đi đi
Sao anh không đứng lại
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh lại vội về

Lời nói thoảng gió bay
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Sao mà anh ngốc thế !
Không nhìn vào mắt em”

(“Em bảo anh đi đi” – Kaputikian)

Dẫn chứng 3
Khi phân tích sự chủ động, mạnh dạn, táo bạo của người con gái khi yêu: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”, ta có thể liên tưởng đến hình ảnh cô gái táo bạo “sang nhà hàng xóm” thể hiện tình yêu của mình:

“Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu”

(“Hương thầm” – Phan Thị Thanh Nhàn)

Dẫn chứng 4
Nói đến sự bí ẩn, kì diệu của tình yêu ta có thể dẫn câu nói của Pascal: “Trái tim có những quy luật riêng mà lí trí không thể hiểu nổi”

Dẫn chứng 5
Khi phân tích nỗi nhớ trong tình yêu ở khổ 5, chúng ta có thể liên hệ, mở rộng đến những vần thơ sau:

“Trời còn có bữa sao quên mọc
Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em”
(“Đêm sao sáng” – Nguyễn Bính)

Hay có những nỗi nhớ rất khó lí giải trong áng thơ tình của Puskin:

“Lạ quá ! Không hiểu vì sao
Ðứng trước em anh lạnh lùng đến thế?
Nhưng anh đi rồi mình anh với bóng lẻ
Mới thấy mình khẽ nói : Nhớ làm sao!”

Hoặc nỗi nhớ nỗi nhớ nhung da diết của cõi lòng yêu:

“Ước gì anh hoá thành chim
Bay theo em, hót cho tim đỡ buồn!”

(“Mưa rơi” – Tố Hữu)

Dẫn chứng 6
Nói đến sự chủ động tìm đến tình yêu và chủ động bày tỏ tình cảm chân thành trong câu thơ:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.

Ta có thể liên hệ đến những vần thơ sau:

“Đêm nằm lưng chẳng đến giường
Trông trời mau sáng ra đường gặp anh”

(Ca dao)

Hay ta cũng bắt gặp hình ảnh người con gái chủ động, táo bạo trong tình yêu trên những vần thơ của Heinrich Heine:

“Em yêu tôi tôi biết
Tôi phát hiện lâu rồi
Nhưng khi em thổ lộ
Tôi giật thót cả người”

Dẫn chứng 7
Nói đến không gian đối cực bắc – nam trong câu: “Dẫu xuôi về phương bắc/ Dẫu ngược về phương nam”, ta có thể liên hệ đến:

“Vừa thoáng tiếng còi tàu
Lòng đã nam đã bắc”

(“Sân ga chiều em đi” – Xuân Quỳnh)

Dẫn chứng 8
Khi phân tích bản lĩnh kiên cường của người con gái ở khổ 6, gợi chúng ta liên tưởng đến câu ca dao:

“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”

Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong khổ 6, ta cũng từng bắt gặp vẻ đẹp đó trong thi phẩm “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Dẫn chứng 9
Khi phân tích những dự cảm lo âu trong lòng người phụ nữ đang yêu ở khổ 8, ta có thể liên hệ:

“Ngọn sào thưa cánh chuồn ai ngái ngủ
Những cánh chuồn mỏng manh như tình yêu”

(“Chuồn chuồn báo bão” – Xuân Quỳnh)

Hay nhà thơ Vân Long từng viết về Xuân Quỳnh:

“Thiếu tuổi thơ, Quỳnh viết cho trẻ thơ
Khát hạnh phúc, đi tìm hạnh phúc
Tìm thấy chưa mà Quỳnh lo đánh mất
Cái chết này có hết mọi âu lo”.

Việt Bắc – Tố Hữu

Dẫn chứng 1
Nói đến sự tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của thời đại cách mạng, Quân đội nhân dân Việt Nam:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”

Ta có thể liên hệ đến niềm tự hào trước các tráng sĩ thời Trần mang tinh thần Sát Thát:

“Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”

Dẫn chứng 2
Nói về sự quen thuộc của cách xưng hô “mình” – “ta”, có thể liên hệ đến ca dao:

“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ
“Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình”
Chữ trung thì để phần cha
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình”

Dẫn chứng 3
Khi phân tích lời đáp của người ra đi:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Chúng ta có thể liên hệ đến lời thơ của Lưu Quang Vũ:

“Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói mà bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn để lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta”
(“Hơi ấm bàn tay” – Lưu Quang Vũ)

Dẫn chứng 4
Phân tích câu thơ: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô” gợi cho chúng ta nhớ đến hình ảnh người mẹ trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm:

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng”

(“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” – Nguyễn Khoa Điềm)

Dẫn chứng 5
Khi phân tích chữ “đổ” trong câu thơ: “Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Chúng ta có thể so sánh với chữ “đổ” trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”

Dẫn chứng 6
Khi nói đến phẩm chất anh hùng, bất chấp hy sinh, gian khổ, sát cánh bên bộ đội của người dân Việt gợi ta nhớ đến:

“Ôi đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”

(“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi)

Dẫn chứng 7
Khi phân tích hình ảnh hiện thực “vành mũ” trong câu thơ: “Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan” ta có thể liên hệ đến hình ảnh:

“Vẫn đôi dép lội chiến trường
Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”

(“Tiếng hát sang xuân” – Tố Hữu)

Ý thơ “Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan” gợi ta nhớ đến:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”(“Tây Tiến” – Quang Dũng)

Dẫn chứng 8
Khi phân tích hình ảnh: “Những đường Việt Bắc của ta” để làm nổi bật niềm tự hào của nhân vật trữ tình vì cảm giác được làm chủ những vùng không gian rộng lớn của Tổ quốc ta có thể liên hệ cảm hứng quen thuộc ấy trong thơ ca cách mạng:

“Mây trời của ta, trời thắm của ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”

(“Ta đi tới” – Tố Hữu)

Hoặc:

“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

(“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi)

Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường

Dẫn chứng 1
Nhạc sĩ Phạm Duy có những câu hát nổi tiếng về sông Hương:

“Tôi yêu những sông Trường Sơn
Biết ái tình ở dòng sông Hương…”

(Tình ca, 1953)

hay

“Người về chưa ghé sông Hương
Đã nghe tiếng gọi đôi đường đắng cay”.

(Trường ca Con đường Cái quan)

Dẫn chứng 2
Nhà thơ Thu Bồn:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.

Dẫn chứng 3
Huế 1” – Nguyễn Trọng Tạo:

“Sông Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh, đền đài ngả nghiêng say”.

Dẫn chứng 4
“Tiếng hát sông Hương” – Tố Hữu:

“Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang
Trăng lên trăng đứng trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng
Thuyền em rách nát
Mà em chưa chồng
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!
Trời ôi, em biết khi mô
Thân em hết nhục giày vò năm canh
Tình ôi gian dối là tình
Thuyền em rách nát còn lành được không?

– Răng không, cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Trong như nước suối ban mai giữa rừng.
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày mai trong nắng trắng ngần
Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ
Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
Cô ơi tháng rộng ngày dài
Mỏ lòng ra đón ngày mai huy hoàng
Trên dòng Hương Giang…”

Dẫn chứng 5
Bài hát “Ai ra xứ Huế” – Nhạc sĩ Duy Khánh:

“Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về sông Hương
Nước sông Hương còn vương chưa cạn
Chim núi Ngự tìm bạn bay về
Người tình quê ơi người tình quê thương nhớ xin trở về”.

Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm

Dẫn chứng 1
Khi nói đến niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử trong câu thơ “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Ta có thấy Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định điều ấy trong “Bình Ngô đại cáo”:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

Dẫn chứng 2
Khi phân tích câu thơ “Đất Nước có trong những cái ngày xưa mẹ thường hay kể”. Để thấy được vai trò của những câu truyện cổ tích trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, chúng ta có thể liên hệ đến:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”

(“Truyện cổ nước mình” – Lâm Thị Mỹ Dạ)

Dẫn chứng 3
Từ hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” ta có thể liên hệ đến ca dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối lòng anh”

Dẫn chứng 4
Khi phân tích nghĩa tình của cha mẹ trong câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” gợi ta nhớ đến lời ca dao quen thuộc, thấm đậm tình nghĩa thủy chung:

“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Dẫn chứng 5
Nói đến nỗi nhớ trong câu thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Ta có thể liên hệ đến nỗi nhớ trong “Sóng” – Xuân Quỳnh:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Hay nỗi nhớ mãnh liệt trong “Tương tư chiều” – Xuân Diệu:

“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”

Dẫn chứng 6
Từ hình ảnh thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, còn làm ta nhớ đến những vần ca dao lay động lòng người, bồi hồi xao xuyến trước tình cảm chân thành của những trái tim đương thời say đắm:

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên ai”

Dẫn chứng 7
Khi phân tích: “Thời gian đằng đẵng/ Không gian mênh mông/ Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Ta thấy: câu thơ ngầm ngợi ca dân mình đã gắn bó, đoàn kết dựng nước và giữ nước, bảo vệ từng tấc đất quê hương qua bốn nghìn năm lịch sử.

Ý thơ làm ta nhớ đến những lời cuối trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Dẫn chứng 8
Khi phân tích câu thơ “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”, với tư tưởng trong ta luôn có một phần Đất Nước, ta có thể liên hệ đến tác phẩm “Quê hương” của Giang Nam:

“Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần máu thịt của em tôi”

Dẫn chứng 9
Hình ảnh so sánh “Đất Nước là máu xương của mình” gợi ta liên tưởng đến câu thơ:

“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

(“Sao chiến thắng” – Chế Lan Viên)

Dẫn chứng 10
Khi nói đến trách nhiệm của cá nhân đối với Đất Nước “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ / Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở / Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Chúng ta có thể liên hệ đến những câu hát như:

“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà phải hỏi rằng ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”

(Khát vọng tuổi trẻ)

Dẫn chứng 11
Hay liên hệ đến những khát vọng cống hiến trong bài “Tự nguyện”:

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đoá hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”.

Dẫn chứng 12
Khi nói đến ý thức giữ gìn và truyền lại những giá trị văn hóa, tinh thần của thế hệ trước cho thế hệ sau trong đoạn thơ: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng …. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” ta có thể liên hệ đến “Báng súng” của Hoàng Trung Thông:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.

Từ ý thơ “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” ta có thể liên tưởng đến câu ca dao:

“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”

Dẫn chứng 13
Nói về tinh thần yêu nước, bất khuất của người Việt Nam trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm:

“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ lâu dài”

Ta có thể liên hệ đến những câu ca dao ngợi ca tinh thần quật khởi của dân tộc:

“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”

Tây tiến – Quang Dũng

Dẫn chứng 1
Khi phân tích câu thơ mở đầu “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”, ta có thể trích dẫn nhận định: “Câu thơ như một tuyệt bút về thiên nhiên sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí kết của con sông chiến trận , quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ” (Nhà thơ Phan Quế)

Dẫn chứng 2
Khi phân tích “nỗi nhớ chơi vơi”, chúng ta có thể liên hệ đến nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi”, nỗi nhớ “ngẩn ngơ” trong ca dao:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”

Hay nỗi nhớ “dây dưa” trong thơ của Tế Hanh:

“Hoa cúc vàng trong nỗi nhớ dây dưa”

Dẫn chứng 3
Khi phân tích câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” ta thấy được tư thế ngạo nghễ hiên ngang của người lính giữa lồng lộng đất trời. Tư thế ấy gợi chúng ta liên tưởng đến hình ảnh anh vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bòng dài trên đỉnh núi cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”

Dẫn chứng 4
Phân tích sự hiểm trở, dữ dội của thiên nhiên qua hình ảnh “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, chúng ta có thể liên hệ đến hình ảnh thác nước chảy đứng trong thơ Lí Bạch:

“Phi thiên trực há tam thiên xích”
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)

Dẫn chứng 5
Phân tích sự hoang sơ, bí hiểm của chốn “sơn cùng thuỷ tận” trong câu thơ “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” ta có thể liên hệ đến câu thơ:

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”
(“Nhớ rừng” – Thế Lữ)

Dẫn chứng 6
Nói về sự ra đi thanh thản của những chàng trai Tây Tiến, có thể liên hệ đến câu thơ sau:

“Vui vẻ chết như như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân công vui sướng
Nằm trên liếp cỏ ngủ ngon lành”
(Tố Hữu)

Hay:

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi
Thì còn chi Tổ quốc”
(“Khúc bảy” – Thanh Thảo)

Dẫn chứng 7
Để nói về khí thế hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng về người lính Tây Tiến, có thể liên hệ đến những câu thơ trong bài “Dáng đứng Việt Nam” – Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Dáng đứng Việt Nam”

Dẫn chứng 8
Khi phân tích câu thơ: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, gợi cho ta liên tưởng đến những vần của Chế Lan Viên trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả mùi hương”

Dẫn chứng 9
“Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó” – Nguyễn Đăng Điệp

Dẫn chứng 10
Nhận định này có thể dùng để so sánh sự khác nhau giữa thi phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” của Quang Dũng.

Dẫn chứng 11
Để thấy được sự tinh tế, hào hoa của Quang Dũng khi cảm nhận được linh hồn của lau cỏ ta cần có sự liên hệ đến những câu thơ của Chế Lan Viên:

“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng”

Dẫn chứng 12
Khi nói về căn bệnh hiểm nghèo – sốt rét rừng ta có thể liên hệ đến hình ảnh của anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” của Tố Hữu:

“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”

Hay:

“Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!”

(“Lên cấm sơn” – Thôi Hữu)

“Cái phút người anh như lửa nóng
Núi cũng ngồi, cũng đứng khác chi anh
Những câu thơ lẫn vào cơn sốt
Con chữ cháy đen xiêu vẹo dáng hình”

(“Nhật kí sau cơn sốt” – Nguyễn Đức Mậu)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *