1.Hình tượng người lính Tây Tiến
Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt.Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời ngay trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính Tây Tiến.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào va miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào).
Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiền phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành.
Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng , kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến.
Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Nhưng nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến bắt nguồn từ chính hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc tóc là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp, rừng thiêng nước độc, thuốc men không có nên quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ
quốc quân trong bài cá nước cũng không quên nhắc tới sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó:
Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính Tây Tiến:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”. Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
(Đấtnước–NguyễnĐìnhThi)
Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc.
Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân yêu kiều, thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng.
Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng không hè né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của chiến tranh đó là sự hi sinh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
– Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lèn khúc độc hành.
Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang. Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viền xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình vì Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.
Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng.
2. Hình tượng nhân vật Tnú và câu nói của Cụ Mết : “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”
Nguyễn Trung Thành là nhà văn đã sống và gắn bó với Tây Nguyên trong suốt cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Chống Mĩ. Tây Nguyên đã thổi hồn vào những trang viết của ông như :”Đất Nước đứng lên”, “Rừng Xà Nu”. Tác phẩm “Rừng Xà Nu” được xem là bản Hịch thời đánh Mỹ. Ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng bạn đọc về tác phẩm này đó chính là hình tượng nhân vật Tnú – người anh hùng của dân tộc Tây Nguyên, người tiêu biểu cho chân lý cách mạng mà cụ Mết đã truyền dạy: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Khái quát: Tác phẩm “Rừng Xà Nu” ra đời vào thời điểm mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Tác phẩm được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Bối cảnh của thiên truyện là mảnh đất Tây Nguyên với những con người anh hùng, kiên trung, bất khuất.
Câu nói của cụ Mết “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”: Câu nói của già làng Mết là câu nói được đúc rút từ cuộc đời bi tráng của Tnú và từ thực tế đấu tranh của đồng bào Xô Man nói riêng và dân tộc Tây Nguyên nói chung. Giặc đã dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp nhân dân ta thì ta phải dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng. Con đường cầm vũ khí để đáp trả kẻ thù là tất yếu. Qua câu chuyện cuộc đời Tnú nhà văn Nguyễn Trung Thành đã làm sáng tỏ chân lý cách mạng ấy.
Tnú là con người gan góc, dũng cảm, mưu trí :
Lúc còn bé , Tnú có hoàn cảnh bất hạnh, đáng thương nhưng lại rất cứng cỏi, gan dạ. Cha mẹ của Tnú mất sớm nên Tnú được dân làng cưu mang, nuôi dưỡng. Tnú chính là người con của dân làng Xôman – đứa con của nhân dân. Cũng như người dân làng “có cái bụng thương núi, thương nước”, Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm. Từ tấm lòng này, Tnú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó trung thành, thủy chung sâu nặng với Cách mạng . Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời, Tnú đã xuất hiện với tư cách của người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mỹ. Dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo, đầy quả cảm như các anh Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính… Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu những người đi nuôi cán bộ “chúng treo cổ anh Xút lên gốc cây vả đầu làng; chặt đầu bà Nhan buộc tóc treo đầu súng”. Vượt qua nỗi sợ hãi Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng. Đây là một công việc vô cùng khó khăn và đầy nguy hiểm nhưng Mai và Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào “Năm năm chưa hề có cán bộ nào bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng làng này”.
Tnú còn là một người có phẩm chất chính trực, trong sáng, trung thực, thẳng thắn như cây Xà Tnú quyết tâm học cho được cái chữ Cụ Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết, nếu không may anh Quyết bị hy sinh. Nhưng Tnú học chữ hay quên. Bởi vậy, khi học chữ thua Mai, Tnú giận mình quá “đập bể cái bảng nứa” rồi tự trừng phạt cái tội hay quên của mình bằng cách “cầm hòn đá tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Hành động này có cái gì đó hơi nóng nảy, nông nổi nhưng nó biểu lộ ý chí, quyết tâm sắt đá của một con người có chí khí, vì không học được chữ nên tự trừng phạt mình cho đau cho nhớ mà cố gắng hơn. Sau khi được anh Quyết khuyên răn, Tnú dẹp bỏ tính tự ái, quyết tâm học cái chữ. Đây chính là một phẩm chất đáng quý để sau này Tnú trở thành một chiến sĩ cách mạng thực thụ.
Tuy học cái chữ không mấy sáng dạ nhưng làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết, Tnú có cái đầu sáng lạ lùng. Vốn là con người nhanh trí, táo bạo thích mạo hiểm. Tnú “không bao giờ đi đường mòn”, bị giặc vây các nẻo đường, “Tnú leo lên cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi vượt qua tất cả vòng vây”. Tnú không vượt qua suối những nơi nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm như cưỡi lên lưng con cá kình.
Khi bị giặc bắt, Tnú gan dạ, vững vàng trước kẻ thù. Có lần chuẩn bị vượt qua con thác ở sông Đaknang, thì họng súng đen ngòm của bọn giặc đã chĩa vào tai lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng để bảo đảm bí mật cách mạng. Tnú bị giặc bắt, biết bao đòn roi, thương tích đã đổ lên Tnú. Máu của Tnú đã chảy, đã đông lại và quyện thành “từng cục máu lớn” như vết thương trên cây Xà Nu kết tụ bao nỗi đau thương và ý chí phản kháng. Bọn chúng dẫn Tnú về làng. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: “Ở đây này!”. Câu nói này của Tnú là câu nói thể hiện lòng dũng cảm, gan dạ, dám làm dám chịu, bất khuất hiên ngang trước kẻ thù “Uy vũ không thể khuất phục”. Đó còn là lời thề dữ dội thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Cách mạng của không chỉ riêng Tnú mà còn là của làng Xô Man kiêu hùng bất khuất.
Tnú có một trái tim yêu thương và sục sôi căm thù giặc: sống rất nghĩa tình và luôn mang trong tim ba mối thù: của bản thân, của gia đình, của buôn làng.
Tnú và bi kịch gia đình, bi kịch cá nhân.
Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc theo lời anh Quyết dặn trong thư trước khi anh Quyết hi sinh. Trong mắt của bọn thằng Dục, Tnú là “con cọp” của núi rừng Tây Nguyên chỉ “nay mai là làm loạn núi rừng này rồi”. Trong lòng nhân dân Xô Man, Tnú là linh hồn của cuộc kháng chiến. Và Mai, người bạn từ thuở thiếu thời, đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng và thủy chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như ánh trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên. Thì kẻ thù tàn bạo đã đập vỡ tổ ấm yên vui của Tnú và gieo rắc tang thương cho dân làng Xô Man “Chúng nó đóng lại trong làng bốn đêm. Ngọn roi của chúng không từ một ai. Tiếng kêu khóc dậy cả làng”. Độc ác hơn chúng đã giết vợ con Tnú bằng trận mưa roi sắt, hòng uy hiếp tinh thần Cách mạng của anh, người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn đầy xúc cảm và ấn tượng “Tnú đã bỏ gốc cây của anh. Đó là một cây vả. Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh như có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù đau nhói trong tim và bừng cháy trong hai con mắt – một chi tiết thật dữ dội. Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp nữa!
Đó không chỉ là bi kịch của Tnú mà còn là bi kịch của dân làng Xô Man bởi trong tay họ không có vũ khí, họ chỉ là hai bàn tay không. Có lẽ chính vì vậy mà ở giữa câu chuyện về cuộc đời Tnú, ông cụ Mết đã dừng câu chuyện lại và nhắc đi nhắc lại đến bốn lần câu nói “Tnú không cứu sống được mẹ con Mai”. Chỉ vì Tnú chỉ có hai bàn tay không. Rồi ông cụ cất cao giọng sấm truyền một chân lý rực lửa “Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
Tnú bị bắt, bị trói. Vợ và con chết cả rồi nhưng Tnú không khóc. Anh ghìm nén nỗi đau, cố gắng vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ “Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng chết rồi,Tnú cũng sắp chết”. Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là “rồi khi có lệnh của Đảng cho đánh ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc?… chỉ tiếc cho Tnú không sống được tới ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng”. Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đã đặt cái chung, cái nhiệm vụ lên trên bi kịch của mình. Đó là thái độ biến đau thương thành hành động.
– Bị kẻ thù tra tấn tàn bạo nhưng bản lĩnh của người cộng sản trong Tnú lại rất kiên cường, vững chãi: Để uy hiếp tinh thần cách mạng của dân làng Xô Man và uy hiếp tinh thần của Tnú. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của anh. Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng chúng đã nhầm. Chính ngọn lửa trên mười đầu ngón tay của Tnú đã thắp lên ngọn lửa đồng khởi, ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man.
Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm
(Tố Hữu)
Đoạn văn diễn tả tinh thần bất khuất của người anh hùng Tây Nguyên thật mãnh liệt. “Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa Xà nu”. Mười ngón tay của Tnú nhanh chóng thành mười ngọn đuốc sống. Kì lạ thay, người Cộng Sản ấy không hề kêu van, dù “Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Đúng rồi, Tnú không thèm kêu van vì “người cộng sản không thèm kêu van”. Nhưng Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng, làm lay động tâm can con người. Và cộng hưởng cùng tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà Ưng. Tiếng cụ Mết ồ ồ “Chém! Chém hết!”. Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn của dân làng Xôman. Với vũ khí thô sơ là giáo, là mác, họ vùng lên chém chết bọn ác ôn. Trong phút chốc xác mười tên giặc đã nằm ngổn ngang quanh đống lửa.
Có thể nói, cuộc đời bi tráng của Tnú là điển hình cho con đường đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, góp phần làm sáng rõ chân lý của thời đại: Phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng. Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: “sau này, tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cấm giáo”. Đó là chân lý của Cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt.
Tnú vượt qua bi kịch cá nhân, trở thành người chiến sĩ, người cán bộ có tinh thần kỷ luật cao. Từ đây cả dân làng Xôman vùng dậy cầm lấy giáo mác… làm vũ khí chống lại súng đạn tối tân tàn bạo của Mỹ – Ngụy. Và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được nối tiếp bằng việc “đi lực lượng”. Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ con anh còn tồn tại trên đất nước Việt Nam này. Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ quê hương gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về “cấp trên cho về một đêm. Tnú chỉ về một đêm”. Anh cũng là con người rất tình cảm: trên đường về lại làng, mỗi gốc cây, mỗi con đường với anh là kỷ niệm nhất là nhớ gốc cây xà nu lớn nơi Mai đã nắm bàn tay anh mà khóc, kỷ niệm ấy như dao cắt vào lòng. Về gần tới làng nghe “tiếng chày giã gạo” ruột gan anh bỗng cồn cào nhung nhớ. Anh để cho “vòi nước của làng mình dội lên người như ngày trước” để cảm nghe được sự mát lành của vị ngọt quê hương…
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ngôn ngữ sử thi hào hùng kết hợp với chất lãng mạn say mê. Cách dựng truyện, tạo bối cảnh phù hợp. Lời văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm trầm, khi tha thiết, trang nghiêm. Nhân vật được tạo dựng bằng bút pháp sử thi. Tnú là nhân vật anh hùng, nhân vật đó còn sống, lại hiện diện trong từng lời kể của cụ Mết, đang hiện diện trước mắt dân làng. Vì thế tính chân thực càng cao, càng hào sảng.
Tóm lại, hình tượng Tnú là hình tượng điển hình tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường đi đến cách mạng của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại chống Mỹ. Qua cuộc đời bi tráng, đau thương mà anh hùng của T nú, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã ngợi ca con người Tây Nguyên kiêu hùng bất khuất. Cũng qua nhân vật này, nhà văn một lần nữa khẳng định chân lý bất diệt của thời đại “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
3.Những đứa con trong gia đình
Truyện ngắn (Những đứa con trong gia đình) đã khắc họa thành công hình tượng những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước thương nhà, căm thù giặc sâu sắc, thuỷ chung son sắt vói cách mạng, gắn bó máu thịt với quê hương. Trong dòng sông truyền thống gia đình ấy “mỗi người một khúc?’, không ai giống ai nhưng chung một nguồn nước và “trăm sông đổ về biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển”. Chú Năm chính là khúc thượng nguồn,
3.1 ,Nhân vật chú Năm
Nhân vật chú Năm- hình tượng kết tinh truyền thống của một gia đình Chú Năm xuất hiện như con người của đất đai, sông nước, kênh rạch, nồng nàn hơi thở Nam Bộ. Chú là người nông dân từng trải “đi đây đi đó nhiều” và cũng “ham sông ham biển”. Mỗi lời nói của chủ Năm giản dị, môc mac. nhưng sâu xa ý nghĩa, như đúc kết lại một nhận xét có rinh triết lí, không phải thứ triết lí sách vở, mà triết lí cuộc đời. Chú ví “chuyện gia đình ta nó cũng dài như con sông, để rồi chú chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó”. Trong phép ví von mộc mạc, cụ thể ấy, Chú Năm muôn nói rằng: con cháu là sự nối tiếp huyết thống và truyền thống của một gia đình; muốn hiểu một người phải hiếu truyền thống và cội nguồn của gia đình sinh ra người ấy.
Bản thân chú Năm cũng là người chuộng đạo nghĩa, thường trực trong chú là tình thần “trọn tình nhà, vẹn nghĩa nước”. Hài lòng với những lo toan, thu xếp của hai cháu, chú Năm khen: “Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Âm vang trong lời chú là đạo lí của người dân nước ta truyền lại từ ngàn xưa. Đọc truyện, ta thấy chú Năm luôn hướng về truyền thống, vun đắp bề dày cho truyền thống, giữ gìn cho truyền thông bằng câu hò và cuốn sổ: “Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mây câu”, “những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này”. Trong câu hò của chú Năm có đủ cả trời sao, sông nước, con người,tấm áo , ngọn đèn… như là ngọn nguồn, là hồn thiêng của đất nước, của cha ông đang nhập vào chú Năm mà truyền đến các thế hệ sau: “Theo từng câu hò, khi thì Việt biến thành tâm áo vắt quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”.
Cuốn sổ gia đình trong tay chú Năm là một cuốn gia phả đặc biệt, ở đó mỗi dòng, thậm chí mỗi chữ đều có máu và nước mắt. Chú năm là người thư kí trung thành, là tác giả của cuốn biên niên sử ấy. Chữ viết của chú “lòng còng’, lời văn thô mộc, nhưng kĩ càng, tỉ mỉ, chú ghi lại không thiếu một chút nào nỗi đau thương của từng người trong gia đình và tội ác của quân giặc. Đó là việc ông nội bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng; chuyện bọn lính chửi bác Hai một câu, ngày bà nội bị chúng đánh ba roi; ngày thím Năm bị bắn bể xuồng khi đi rọc lá chuối “chết còn mặc cái quần mới, trong túi có hai đồng bạc”… Đó là những bằng chứng về tội ác của kẻ thù và truyền thống dũng cảm, can trường của dòng họ trong chiến đấu. Chính thế hệ trẻ như Chiến và Việt sẽ là người viết iếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống,cho nên chú Năm mới nói: “Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây”.
3.2. Nhân vật người má của Việt
Nhân vật người má của Việt- hiện thân cho truyền thống gia đình. Ngòi bút Nguyễn Thi có lần đã làm chức năng điêu khắc, tạo nên những bức tượng đài bất hủ về người mẹ trong chiến tranh – Người mẹ cầm súng. Trong các tác phẩm của Nguyễn Thi, hình tượng người má, người mẹ mang đậm chất Nam Bộ bao giờ cũng gợi cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ nhất cho ông. Họ là một nguồn sinh lực dồi dào, họ sinh ra những đứa con để nối tiếp huyết thống, họ dạy con đế nối tiếp truyền thông, bản thân họ là hiện thân cho truyền thốdng gia đinh để các con noi theo. Họ có thể ngã xuống vì bom đạn kẻ thù, nhưng họ sẽ tái sinh trong máu thịt và sống lại trong cuộc đời của những đứa con. Họ bát tử , má của Việt và Chiến trong thiên truyện này là người như vậy. Trước khi nhập ngũ, Chiến và Việt đều cảm thấy má trở về ngồi đó.
Những người phụ nữ nông dân Nam Bộ như má Việt sinh ra và lớn lên trong máu lửa của hai cuộc chiến tranh khốc liệt những người như má Việt phải chắc khỏe về thể chất và kiên cường, mạnh mẽ về mặt tinh thần đế đủ sức chống chọi với gian nguy, khó nhọc. Hãy xem Nguyễn Thi khắc họa bức chân dung người phụ nữ nông dân Nam Bộ ấy: “Má bơi xuồng thiệt khỏe, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách mướp để lộ cái gáy đo đỏ và đôi vai lực lưỡng,[…] xuồng cập bến mặt má vẫn đỏ rực, cái nón rách được ngả ra làm quạt, lưng áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lại không còn thấy bạc nữa […]tiếng chân má đi bịch bịch vào nhà. . Lần này má rinh thúng lúa lên một mình và đặt ngay trên giường ngủ”. Người má ấy thật tần tảo xốc vác , sáng sáng lời dặn dò vừa tới tai con thì má và xuồng đã ở tít giữa sông. Chiều chiều mặt còn đỏ rực và đẫm mồ hôi đã lại bơi thuyền đì, mãi canh hai khuya khoắt má mới trở lại nhà, người sực mùi lúa gạo và mồ hôi, mùi của đồng áng và một nắng hai sương.
Trên đất nước như đất nước mình, ở một thời như thời kì chống Mĩ cứu nước mới có thể có những người má như má Việt, mới có nghị lực cắn răng nén chặt đau thương để sống, nuôi dạy, che chở cho đàn con và tiếp tục chiến đấu làm mẹ là một nguồn sống mạnh mẽ mà không sự tàn bạo, đau thương nào khuất phục nổi. Tận mắt Chiến và Việt chứng kiến người má của mình cố nén đau không rơi lệ khi ba bị giặc giết, mãi “Chiều hôm đó về tới nhà má mới khóc… Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên má cũng không khóc”. Nếu có lúc nào không chịu nổi lệ ứa ra, thì “má chỉ nằm khóc chứ không kể gì hết”. Bao nhiêu đau thương ngườì mẹ vùi sâu vào cõi lòng, tự mình gánh lấy.
Tình yêu thương khiến má Việt không biết sợ, không chùn bước. Tình thương chồng , thương con ờ xứ sở này thời chiến tranh hiện ra dưới hình thức thật dữ dội, đau đớn: một người vợ tay bồng con, tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, một người mẹ hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phù lên đầu đàn con đứng nép dưới chân”. Đó là bức tượng đài sừng sững mà Nguyễn Thi đã tạo nên trong tác phẩm của mình để lưu lại mãi mãi hình tượng người mẹ ở một xứ sở đau thương, cuộc sống quá nhiều khốc liệt ma rất đỗi kiên cường, bất khuất, hết sức đau thương mà cao cả.
3.3. Nhân vật Chiến – sự nối tiếp người mẹ
Đúng như chú Năm đã nói, con sông truyền thống của gia đình ví cho mỗi người một khúc, nhưng vẫn liền một dòng “con sông của gia đình ta cũng chảy về biển”. Người mẹ ngã xuống như dòng sông truyền thống vẫn tuôn chảy dào dạt. Và hình ảnh của má hiện hình trong sức sống của Chiến, con gái của má.
Chiến thừa hưởng của má cả vóc dáng hình hài và linh hồn: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng…, thân người to và chắc nịch”. Đó là con người sinh ra để xốc vác, để chống chọi, chịu đựng, đế chiến đấu và chiến thắng. Trong cái đêm trước khi lên đường nhập ngũ chiến đấu, Chiến mới thật sự giống má. Chiến lo liệu việc nhà thật chu đáo, trọn vẹn y hệt má: nào là gửi út em ở đâu, nhà cửa, ruộng nương giao cho ai trông nom, trồng hái, gửi bàn thờ má sang nhà chú Năm… Chị Chiến “nói in như má vậy”, cũng nằm với thằng út em trên giường ở trong buồng nói ra, hứ một cái “cóc” rồi trở mình. Trong thời gian ngắn ngủi đêm ấy, ba lần
Việt phải thốt lên thấy chị Chiến giống in như má, nếu có gì khác thì đó là chị Chiến “không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi”. Chính Chiến cảm thấy mình đang làm theo điều má nghĩ nên nói với cậu em: “Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Trong giờ phút thiêng liêng ấy, người mẹ sống mãnh liệt trong tâm hồn những đứa con chí hiếu: “Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt.
Là con gái, Chiến có sự kiên nhẫn đến gan lì của người từng trải cực khổ. Chiến đã ngồi cả ngày kiên nhẫn đánh vần cuổn sổ gia đình mà mỗi dòng thấm máu và nước mắt để nuôi dưỡng cho mình khát vọng không nguôi — chiên đấu và trả thù: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: “Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Là người chị, lúc nào Chiến cũng nhường nhịn em, từ việc lớn đến việc nhỏ. Trong cả truyện ngắn này, chỉ có một lần Chiến không nhường em, ấy là lần cả hai chị em tranh nhau nhập ngũ. Người đọc dễ dàng chấp nhận hành động “nhanh hơn” này, nó không trái với tính cách của Chiến. Hành động ấy của chị còn bộc lộ một ý nghĩ cảm động: Chiến chưa muốn em mình sớm phải bước vào cuộc chiến đâu gian khổ, ác liệt,
3.4. Nhân vật Việt
Nhân vật Việt— từ tuổi thơ đi thẳng tới chiến trường Nhân vật Việt xuất hiện nhiều lần trên những trang viết của Nguyễn Thi. Việt là một chàng trai, rồi thành một người lính dũng cảm, nhưng dẫu sao anh cũng chi là một chàng trai mới lớn. Trong gia đình, Việt vẫn là một cậu bé. Cái chất trẻ con, lộc ngộc, vô tư của một chàng trai đang tuổi ăn, tuổi lớn của Việt bộc lộ sự hiếu động: suốt ngày Việt mải mê bắt ếch, câu cá, bắn chim..lúc nào cũng có cái ná thun trong người, Việt hiếu thắng, lúc nào cũng tranh hơn với chị (từ việc bắt ếch đến “vết đạn bắn thằng Mĩ trên sông Định Thủy”…). Thật ra, Việt không phải là người không thương yêu chị, nhất là khi cha mẹ đã mất cả. Nhưng có một người chị hay nhường nhịn như chị Chiến thì Việt không thể khác được. Cho đến khi nhập ngũ, chuẩn bị thành người lính, hay đã thành người lính, Việt vẫn lộc ngộc, vô tư, có phần trẻ con như thế. Nghe chị Chiến lo toan, bàn bạc việc nhà nghiêm trang thì Việt lúc “lăn kềnh ra ván, cười khì khì, lúc lại rình môt con đom đóm úp trong lòng bàn tay “, rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Vào bộ đội, cầm cây súng đánh giặc mà Việt vẫn mang theo cây ná thun. Đặc biệt “trẻ con” là anh không dám hé cho ai biết mình có một người chị “Việt giấu chị như giấu của riêng vậy. Cậu ta sợ mất chị mà. Đánh giặc rất dũng cảm, dùng thủ pháo tiêu diệt xe bọc thép cùng “sáu thằng Mĩ lẻ”, nhưng khi bị thương lạc trên chiến trường Việt lại… sợ ma! (“Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông,…”). Sau những cố gắng phi thường, gặp lại anh Tánh và đồng đội, Việt vừa khóc, vừa cười hệt như một đứa trẻ “khóc đó rồi cười đó”…
Xây dựng nhân vật Việt hồn nhiên và trẻ thơ như thế Nguyễn Thi muôn nói với bạn đọc về một thế hệ trẻ Việt Nam bước vào cuộc chiến đấu rất sớm như là đi thẳng từ tuổi thơ đến chiến trường. Thế hệ trẻ ấy có thể rất hồn nhiên, trẻ con, vô tư trong các mốì quan hệ gia đình và xã hội khác, nhưng cực kì nghiêm túc trong những suy nghĩ về kẻ thù, về cuộc chiến đấu
chống Mĩ xâm lược. Cho nên trong dòng sông truyền thống của gia đình, có lẽ Việt là người sẽ đi xa hơn cả. Không chỉ vì Việt lập được chiến công lớn nhất mà còn vì Việt là người luôn ở tư thế chủ động tiến công, tìm giặc mà đánh. Anh tân binh ấy chỉ có một mình trên trận địa, hai tay đau đớn, đôi mắt không còn nhìn thây gì vẫn quyết sông mái với kẻ thù: “Trên đời có mày, dưới đất có mày, khu vừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Trong một trận đọc lê ở rừng cao su , nhìn thấy bọn Mỹ sống sót thua tháo chạy, Việt tự hào nghĩ :. “Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Việt là hiện thân của sức trẻ tiến công, là hiện thân của ngày mai chiến thắng. Ngòi bút cúa Nguyễn Thi thật tinh tế khi nói về sự trưởng thành của những đứa con trong một gia đình có truyền thống yêu nước thương nhà.
Đoạn văn tả chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm là một đoạn tuyệt bút của Nguyễn Thi. Một không khí thiêng liêng cảm động bao trùm lên cảnh vật và con người. Hai chị em khiêng bàn thờ má như đang đỡ má trên đôi vai lực lưỡng của tuổi trẻ đã trưởng thành, bước đi những bước vững chắc trên con đường gian nan mà trước đây má đã chọn, cùng má đi trong hương thơm của đất đai, hoa trái quê mình: “Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, cơn đường hồi trước má vẫn đi để lỗi hết đồng này này sang bưng khác”. Không khí linh thiêng ấy đã biến Việt thành một con người khôn lớn. Nghe tiếng chân “bịch bịch” của chị Chiến ở phía sau, “Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thây được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Ba má và cả chú Năm có thể vui lòng vì thế hệ cháu con đã vượt lên đau thương để trường thành, bước tiếp, đi xa hơn trên con đường cách mạng mà gia đình đã lựa chọn. Dòng sông truyền thống của gia đình không bao giò cạn, vẫn dào dạt đổ về biển cả hùng vĩ, bao la..
Thiên truyện nói về những người con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước thương nhà, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương. cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thông dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nội dung tư tưởng sâu sắc nói trên được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện: trần thuật qua dòng hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tính cách và tâm lí sắc sảo; ngôn ngữ phong phú, tính tế và đậm chất Nam Bộ.