Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người

Nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”.

Hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

Bài làm

Giây phút cậu bé Anđécxen chào đời giữa thung lũng Ôđenzơ thuộc đảo Finn, nơi cò những hẻm núi sương giăng mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tím nên thơ…, chưa một ai có thể khẳng định rằng: Cậu bé ấy là một thiên tài cổ tích. Nếu không trải qua quãng đời thơ ấu trong nhà gỗ của ông thợ giày nghèo, nếu không lắng nghe âm thanh cuộc sống từ chiếc cối xay gió vù vù, từ giếng nước đóng rêu xanh ngắt, nếu không lăn lộn vào đời để rồi có lúc chua xót tự ví mình “ như một con chó chết trôi bị lũ trẻ ném đá cho thỏa lòng vui thích”…, Anđécxen sẽ vĩnh viễn là một kẻ vô danh nào đó chứ không phải là bậc thần tiên tung hoành trên những trang cổ tích là say mê triệu triệu trái tim nhân loại.

Bao giờ cũng thế, văn học – cuộc sống – con người là những yếu tố không thể tách rời nhau để tồn tại riêng biệt. Dường như có một sợi dây vô hình buộc chặt văn học và cuộc sống, tạo nên mối quan hệ vô cùng mật thiết và sâu sắc như lời phát biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”.

Ta biết một Nguyễn Minh Châu qua ngòi bút văn chương sắc sảo luôn khơi dậy trong lòng độc giả nhiều lớp sóng suy tư, băn khoăn, ray rứt về cuộc đời, về những người xung quanh, về chính bản thân mình. Một nhà văn đầy bản lĩnh và kinh nghiệm như thế tất nhiên sẽ có một nhận thức sâu sắc đầy đủ về mối quan hệ giữa đời sống với văn chương. Ở câu nói của Nguyễn Minh Châu, ta bắt gặp một hình ảnh so sánh độc đáo. “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm – mà tâm điểm là con người”. Quả là một hình ảnh ví von thú vị, cô đọng mà chứa đựng ý tưởng rất sâu! Hai vòng tròn văn học và đời sống không tách rời nhau mà chúng cùng xuất phát từ một tâm điểm, nghĩa là hình ảnh, bóng dáng của triệu triệu sự vật, hiện tượng trong cuộc đời và trên những trang văn học là một. Như một quy luật của tạo hóa, văn học và đời sống luôn luôn tồn tại trong mối tương quan hòa quyện vào nhau, hỗ trợ cho nhau để cùng “ sống “ mãi. Là một nhà văn hay một thi sĩ, bao giờ anh cũng phải đắm mình vào cuộc sống, lắng nghe hơi thở và nhịp đập của đời sống biến đổi từng giây để chắt lọc nhữnggì tinh túy nhất đem vào trang viết của mình. Tách khỏi cuộc sống, tác phẩm của anh sẽ như cây non không có rễ, cây sẽ hút nước ở đâu, hút nhựa sống nơi nào để đơm hoa kết trái? Nhà thơ Chế Lan Viên từng thấm thía sâu sắc về mối quan giữa đời và thơ:

Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi

Hãy nhặt những chữ của đời mà góp nên trang.

Chữ của đời, những dòng chữ mượt mà êm tay hay những lớp sóng ngôn từ xô đẩy, những dòng chữ gợi lên trong lòng người đọc nỗi xót xa hay làm bật lên tiếng khóc nức nở, nụ cười mỉa mai, nỗi đau quặn thắt…Tất cả đều là những“ chữ của đời”, là chất liệu của cuộc sống muôn hình muôn vẻ mà nhà thơ, nhà văn đang tồn tại trong lòng của nó. Văn học và đời sống là hai vòng tròn nhỏ hơn, nằm gọn trong lòng cuộc sống và cuộc sống là vòng tròn lớn hơn nhận ánh phản chiếu lại bóng hình cuộc sống và hơn thế nữa, văn học còn là sự nghiền ngẫm chiêm nghiệm về cuộc sống. Chính vì thế có nhà văn đã nói rắng: “ Chức năng của văn học là tiếng chuông thức tỉnh lương tri”. Xuất phát từ cuộc sống, văn học được những bàn tay nghệ sĩ tôi luyện nhào nặn để từ những “hạt bụi quý” rơi vãi giữa đời sống mênh mông, văn học xuất hiện dưới hình hài của một “ bông hồng vàng” ( Pauxtôpxki), trở lại với đời, dâng tặng cho đời những gì lấp lánh cao quý nhất. Hai vòng tròn kỳ diệu ấy bắt nguồn từ đâu? Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu, tâm điểm của chúng chính là con người. Từ thuở quả đất còn là những cánh đồng nguyên sinh bạt ngàn với những đại dương trùng trùng sóng vỗ cho đến quả đất với những chiếc phi thuyền có thể vút lên mặt trăng, sao hỏa của thế kỷ XX…con người không ngừng làm thay đổi thiên nhiên và nâng cao cuộc sống của mình lên một tầm vóc ngày càng cao hơn. Con người quả thật là tâm điểm của đời sống. Văn học là chiếc gương phản ánh và chiêm nghiệm về đời sống nên văn học cũng lấy con người làm tâm điểm trên những trang thơ, trên những dòng truyện ngắn hay trang tiểu thuyết đồ sộ. Theo nhà nghiên cứu lịch sử nhân loại từng biết đến hai hình thức sám hối chủ yếu là tôn giáo và nghệ thuật. Nếu ở nhà thờ hay ngôi chùa, người ta sám hối với Chúa với Phật thì trong văn học, người ta sám hối với chính mình con người với bao tình cảm yêu thương, oán hận, căm hờn, xót xa, sợ hãi…với bao mối quan hệ rộng rãi, quan hệ giữa người với người, người với thiên nhiên hoa cỏ, người hình thức với người nội tâm chính mình…Một khi soi bóng vào tấm kính kỳ diệu của văn chương đều không khỏi ngỡ ngàng vì bắt gặp “cái tôi” trong ấy. Con người bao giờ cũng là đối tượng chủ yếu của văn học. Ngay cả những truyện ngụ ngôn mà khi đọc, ta chỉ thấy những con cáo, chùm nho, những con thỏ, con rùa, con sóc…đấy cũng chính là bóng dáng của con người đấy thôi! Con người còn “ẩn mình” trên những trang thơ dưới hình ảnh của cảm xúc, của nội tâm. Có thể nói bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng hướng về con người, viết về con người và cho con người suy ngẫm, dù đấy là truyện cổ tích của Anđécxen từ đất nước Đan Mạch xa xôi hay bài thơ trăng lung linh của Lý Bạch hay bài Bình Ngô đại cáo lộng gió chiến thắng của Nguyễn Trãi năm xưa.

Cuộc sống là một bức tranh với tầm vóc không gian và thời gian vô tận nên một nhà văn chỉ nắm bắt được một vài khía cạnh trong cái tầm vóc vô cùng ấy. Sự so sánh tiếp theo của Nguyễn Minh Châu cũng thật xác đáng: “ Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặn đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”.

Hầu hết mỗi nhà văn có phong cách riêng, có một chỗ đứng trong lòng người đọc trên trái đất này đều khai thác quặng chất liệu từ một mảng nhỏ của đời sống. Cá biệt có những đại văn hào mà ngòi bút bé nhỏ của họ có thể giãi bày cuộc sống với tầm vóc sâu rộng của nó trên trang viết. Đấy là Balzacvới Tấn trò đời mà giá trị được sánh hơn Tất cả tác phẩm của các sử gia, các nhà kinh tế học, thống kê học, đương thời cộng lại. Hay như nhà văn Lỗ Tấn củaTrung Hoa với tác phẩm lừng danh A Q chính truyện. Lỗ Tấn đã bộc lộ nét tinh hoa thần bút độc đáo qua hình tượng A Q- nhân vật đã trở thành biểu tượng cho quốc dân tính Trung Hoa suốt một thời mà dân tộc này mắc chứng bệnh thắng lợi tinh thần, ảo tưởng cho mình là người chiến thắng ngay trong hoàn cảnh bi đát nhất. Bên cạnh đó, hầu hết các tác phẩm đều tồn tại dưới những sắc thái riêng vì chúng chỉ là lát cắt từ hai vòng tròn đồng tâm khổng lồ của văn học và đời sống. Đọc Nam Cao, ta lại hình dung đến không khí ngột ngạt của những năm 1930– 1945 với những con người từng bước chông chênh trên con đường đi tìm nhân cách. Chí Phèo đắm mình trong một chuỗi cơn say triền miên để phút cuối cùng tự đốt cháy mình lên với những câu hỏi nhức nhồi “Ai cho ta lương thiện?”, một anh Hộ luôn đề cao nguyên tắc tình thương nhưng lại khốn khổ vì cuộc sống chật hẹp với một vòng tròn cơm – gạo – áo – tiền khắc nghiệt. Mỗi tác phẩm văn học là một lát cắt của đời sống phản ánh một nội dung rất cụ thể, một số phận rất rõ nét buộc người đọc phải suy ngẫm, băn khoăn. Vô số những lát cắt của rất nhiềuthời đại ấy cuối cùng đều hướng tới một mục tiêu tốt đẹp, dẫn dắt con người đi đến cõi hoàn thiện. Có vươn tới mục tiêu đó, tác phẩm văn học mới thật sự là tác phẩm chân chính và tồn tại vượt qua sức công phá mãnh liệt của thời gian. Pauxtôpxki từng nói về những vần thơ Anđécxen với niềm cảm phục: “ Anh đã nhặt những hạt giống thơ trên luống đất của người dân cày rồi gieo chúng trong những túp lều, làm chúng nở thành những đóa hoa thơ tuyệt đẹp an ủi trái tim của những người cùng khổ”. Anđécxen tự nhận mình là nhà văn của những người nghèo và suốt cuộc đời viết lách ông không một phút nào phản bội lại đối tượng mà ông phục vụ. Con đường dẫn dắt chúng ta đến với cõi hoàn thiện, quả thật là rất dài và rất xa. Trên con đường ấy, ta không chỉ hành trình bằng nhân cách, bản lĩnh của riêng mình mà đôi lúc dừng chân ngơi nghỉ, chúng ta nên soi lại mình qua những tác phẩm văn chương, bởi vì “ Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Soi lại mình, chiêm nghiệm lại mình trong tấm gương văn học, ta sẽ phân biệt hơn lẽ đúng – sai của cuộc đời và những bước chân sẽ vững chãi hơn, dù cho con đường bên dưới nhiều chông gai và mấp mô sỏi đá. Tác dụng của văn học chỉ là một lát cắt nhỏ những gì ta lĩnh hội được là vô tận bởi vì “ lăng kính nhìn đời” – nhân sinh quan, thế giới quan – của mỗi con người mang một đặc điểm riêng. Có thể ta sẽ tìm thấy trong các tác phẩm văn học này những điều mà người khác không tìm thấy, bởi ta có một nhịp rung cảm riêng, một tần số cộng cảm riêng. Cuộc sốngđi vào văn học lúc nào cũng qua hai lăng kính, một của tác giả và một của độc giả. Qua hai lăng kính ấy, cuộc sống sẽ gieo vào lòng con người vô số những cảm xúc suy tưởng và hành động khác nhau nhưng chức năng và sứ mệnh cao cả nhất của văn học bao giờ cũng là hướng ta đến “ cõi hoàn thiện, giúp ta sống tốt hơn, cóích hơn đối với mọi người xung quanh, với cuộc sống và thời đại mà ta đang là một phần tử bé nhỏ trong ấy.

Lời nhật xét của nhà văn Nguyễn Minh Châu đúc kết từ rất nhiều kinh nghiệm viết mà ông đã nếm trải, có lẽ đấy cũng chính là tâm niệm, là phương hướng và cách thức sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Đặc biệt, thưởng thức truyện ngắn “ Bức tranh” của chính tác giả, ta bắt gặp một thứ ánh sáng lóng lánh diệu kỳ từ quan điểm ấy. Bức tranh là lát cắt về một câu chuyện xảy ra từ thời kháng chiến chống Mỹ. Một họa sĩ tài hoa được anh chiến sĩ đưa qua những chặng đường rừng để về Thủ đô triển lãm tranh. Trên đường đi, anh ngỏ ý nhờ ông hoạ sĩ vẽ chân dung để gửi về cho mẹ. Cảm kích ơn cứu mạng của anh chiến sĩ, ông đã vẽ sau lần từ chối lời đề nghị của anh. Bức tranh người chiến sĩ gian lao với chứng sốt rét giữa rừng bỗng nổi tiếng, đưa người họa sĩ lên đỉnh cao danh vọng và ông đã quên người mẫu cùng lời mình hứa. Trong khi ấy, người mẹ anh chiến sĩ nhớ con khóc đến lòa mắt và vĩnh viễn không còn trông thấy mặt con dù chỉ qua bức họa. Thật tình cờ, ông họa sĩ bước vào quán cắt tóc của anh chiến sĩ năm xưa. Giây phút tương ngộ với cố nhân kéo theo một chuỗi dằn vặt trong câm lặng của ông họa sĩ, ông sám hối với chính mình qua tấm gương cắt tóc nhỏ bé nghèo nàn ấy.

Truyện ngắn Bức tranh thật trần trụi. Nó không đưa tôi phiêu du cùng những khóm hồng bạch thơm ngát hay những đôi cánh thiên nga trắng muốt, những vị công nương lấp lánh vương miện vàng như trang cổ tích Anđécxen mà tôi yêu mến. Thế nhưng Bức tranh cứ như mối dây vô hình làm tôi dằn vặt, ái ngại, suy ngẫm nhiều điều nhiều lẽ về cuộc sống hôm nay. Tâm điểm của Bức tranh là con người, nổi bật là hình ảnh người họa sĩ. Người đọc không sao quên được giây phút thần hứng giữa khu rừng hoang vu trong không gian mờ ảo của một buổi tinh sương xa vắng…Giây phút ấy, người họa sĩ đã vẽ một kí họa truyền thần và truyền được cái thần lên trang vẽ. Cái thần ấy rất độc đáo vì nó phát tiết từ chân dung người chiến sĩ môi thâm, nước da tái nhợt nhạt vì chứng bệnh sốt rét. Có lẽ nét thần của bức tranh chứa đựng trong đôi mắt của một con người trung hậu, người luôn cồ gắng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, suốt mấy năm ròng chưa được về phép thăm mẹ, nhưng lòng luôn hướng về quê nhà, người sẵn sàng lội suối cứu ông họa sĩ và vác trên lưng những bức tranh ảnh giá vẽ suốt đoạn đường cheo leo hiểm nghèo…Bức tranh chân dung ấy lẽ ra đẹp đến nhường nào nếu nó được đưa đến tay một người đang mỏi mòn trông ngóng tin con, bà mẹ tội nghiệp của anh chiến sĩ. Thế nhưng “hạnh phúc chỉ là một tấm chăn quá hẹp, người này co người kia hở” ( Nam Cao), sự đời không trôi xuôi như thế. Bức tranh được người ngắm nơi nơi nồng nhiệt đón nhận nó và đem hào quang cùng vòng nguyệt quế đội lên đầu ông họa sĩ tài năng, đồng thời đem bóng tối bao trùm lên đôi mắt người mẹ già tội nghiệp. Có chút gì xót xa day dứt dấy lên trong tôi. Liệu trong cuộc đời, tôi có tránh được giây phút ích kỷ hòng đem đến vinh hoa và danh tiếng cho mình không? Nhân vật người họa sĩ khiến ta bắt gặp chút gì cái tôi trong ấy. Cuộc sống với những lớp sóng bon chen, vật vã đôi khi xô đẩy người ta vào vực xoáy của cái xấu bao giờ không hay. Quả thật, ông họa sĩ đã phạm tôi mà không biết mình phạm tội, ông quá say sưa hài lòng trên đỉnh cao của sự nổi tiếng, xung quanh là những lời tán tụng, ca ngợi của rất nhiều người..Nếu dừng lại ở đấy,Bức tranh mới chỉ là tờ biên bản phản ánh cái bất công và sự ích kỷ của con người. Nguyễn Minh Châu buộc ta phải suy nghĩ nhiều hơn. Gần giống như quy luật“ Ác giả ác báo” trên những trang cổ tích, trái đất xoay tròn đưa người họa sĩngồi vào chiếc ghế ở hiệu cắt tóc mà anh chiến sĩ năm xưa làm chủ, nhìn vàochiếc gương sáng trên tường để thấy nét dửng dưng lạnh nhạt của cố nhân, chứng kiến nét u sầu trên gương mặt bà cụ mù lòa và quan trọng hơn cả, ông buộc phải nhìn lại chính mình. Bức chân dung ông họa sĩ tron gương (mà sau này ông vẽ cách điệu lại riêng cho mình ngắm) là một bức truyền thần kì diệu thứ hai trongcuộc đời ông. Bức tranh ấy nửa phần che giấu với bọn xà phòng phủ trắng nửa mặt dưới, nửa phần phanh phui với với bộ óc như bị phơi ra, lại có phần dằn vặt day dứt khôn nguôi với đôi mắt mở to khắc khoải. Quán cắt tóc trở thành phiên tòamà chánh án là lương tâm của người họa sĩ. Mọi lời xin lỗi ở đây đều hóa thành vô nghĩa. Ông đã hứng chịu một hình phạt cao nhất bởi sự phán xét của lương tâm. Không gì đau khổ hơn khi mình phát hiện và day dứt với tội lỗi của chính mình mà chưa dám mở lời thú nhận…” Trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoànthiện”. Bức tranh là một lát cắt đọng lại trong ta nhiều mối suy tư. Làm sao ta sống hạnh phúc mà không chà đạp hoặc tước đoạt hạnh phúc của người khác? Cóphút nào ta sám hối chưa? Trông điệp mà Nguyễn Minh Châu gửi đến độc giả thậtsâu sắc. Mỗi con người cần soi lại mình nhiều hơn nữa trong tấm gương lương tâm để thấy rõ cái tôi nó biến dạng đến mức nào.

Câu nói của Nguyễn Minh Châu ngắn gọn mà ý nghĩa rất hay, rất sâu rất đáng nghĩ. Văn học – cuộc sống mãi mãi không thể tách rời nhau và cả hai đều xuất phát, đều hướng về tâm điểm duy nhất: Con người, Tôi chợt nhớ những vần thơ Tố Hữu:

Nhân dân là bể

Văn nghệ là thuyền

Thuyền xô sóng dậy

Sóng đẩy thuyền lên.

Văn học bao giờ cũng gắn liền với cuộc sống – con người để có sức sống trụ lại với thời gian, để thực hiện chức năng cao cả không một bộ môn khoa học nào thay thế được, hướng con người đến Chân – Thiện- Mỹ, gột rửa bớt những xấu xa của cuộc đời phức tạp, góp phần “ thanh lọc” tâm hồn và lương tâm con người để cuộc sống tốt đẹp hơn.

Câu nói của Nguyễn Minh Minh phải chăng còn là đồng vọng của triệu triệu ngòi bút chân chính trên quả đất xanh tươi tuyệt đẹp mà chúng ta đang sống?

Đinh Thụy Mĩ Quỳnh, Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, TP. Hồ Chí Minh

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *