I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm. Nêu vấn đề: những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng về tình cảm bà cháu và suy tưởng của nhà thơ.
II. Thân bài
Giới thiệu 3 khổ thơ
– Trong dòng hồi tưởng của người cháu đã trưởng thành từ nơi cuộc sống trăm màu, no ấm, hạnh phúc: Hình ảnh người bà đôn hậu, cùng với hình tượng ngọn lửa là hai nét vẽ biểu cảm của một hồn thơ đẹp được thể hiện hàm súc qua hình ảnh:
“Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”
– Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mỗi chiều, ngọn lửa niềm tin, hạnh phúc: “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ …/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
– Bảy câu thơ tiếp nói lên những suy nghĩ của cháu đối với bà và việc bà nhóm lửa.
– Bảy dòng thơ tiếp: “Bếp lửa bà nhen là ngọn lửa “kì lạ và thiêng liêng”. Điệp ngữ “nhóm bếp lửa” “nhóm nồi xôi”,… bốn lần vang lên đã khắc sâu hình ảnh người bà, tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Cảm xúc: niềm thành kính và biết ơn vô hạn của cháu dành cho bà.
– Nhận xét:
+ Tác giả viết bài thơ này khi đang đi du học, xa quê, xa bà. Hình ảnh gắn với bếp lửa trong kí ức và hiện tại tạo nên biểu tượng thống nhất: bà luôn luôn trong trái tim cháu.
+ Bài thơ đã nói lên thật xúc động tình cảm gia đình thắm thiết, sâu nặng.
III. Kết bài
*Đánh giá chung
– Tác giả đã sử dụng ngôn tự mộc mạc, giản dị, hàm súc.
– Kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt.
– Sử dụng đa dạng các biện pháp tu từ: điệp ngữ, ẩn dụ, so sánh,…
– Bài thơ đã khắc họa thành công tình cảm bà cháu đẹp đẽ, xúc động, thiêng liêng.
Bài văn mẫu
Trong cuộc đời mỗi con người khi sinh ra ai cũng có người thân, gia đình và những kỉ niệm ấm áp bên họ. Tác giả Bằng Việt cũng vậy, ông đã có quãng thời gian rất hạnh phúc bên người bà thân thương của mình. Hình ảnh in sâu trong tâm trí ông chính là hình ảnh chiếc bếp lửa cùng ngọn lửa của tình thương nơi bà thân yêu của ông. Bài thơ Bếp lửa là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu dành cho nhau. Trong đó ba khổ thơ cuối bài đã diễn tả rất chi tiết sự chiêm nghiệm và tình cảm của cháu dành cho bà- ngọn lửa sáng rực trong tim của cháu.
Nhà thơ Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Đoạn thơ nằm ở khổ 5, 6 và 7 của bài thơ, thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà nói riêng và với gia đình, quê hương, đất nước nói chung.
Sau khi đưa ra hình ảnh bếp lửa đẻ khơi nguồn cho dòng suy nghĩ về bà, sau đó người cháu đã suy nghĩ về cuộc đời của bà thông qua hình ảnh bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Hình ảnh bếp lửa rồi đến ngọn lửa đã trở thành biểu tượng mãnh liệt cho tình yêu thương của 2 bà cháu. tác giả ta đã cảm nhận được sự khó nhọc của người bà khi ngày ngày nhóm bếp lửa. Bà luôn hi sinh cho con cháu, người thân! Điệp ngữ “một ngọn lửa” là sáng tạo nghệ thuật đắt giá của tác giả. Nó nhấn mạnh sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa và ý nghĩa của tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hiện thân cho tâm hồn, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người, truyền lửa cho người cháu cũng như là thế hệ mai sau. Bà tin cháu mình sau này sẽ nên người và thành tài để xây dựng non sông đất nước.
Từ những suy ngẫm người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quí của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Cuộc đời của bà phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng sự thử thách của thiên tai cũng như xã hội dường như đã trở thành một điều xảy ra bình thường với bà. Trong hoàn cảnh khó khăn ấy thì bà vẫn sáng lên những phẩm chất đáng quý của một người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” đã càng nhấn mạnh những hi sinh và hình ảnh tuyệt vời của bà. Bà tần tảo, nhẫn lại và đầy lòng yêu thương. Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa đó luôn tỏa sáng trong mọi hoàn cảnh. Bà đã nhóm lên sự sống cũng như tình yêu thương dành cho mọi người. Bếp lửa trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra một chân lí, điều kì diệu giữa cuộc sống đời thường. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rỡ cháy, bất tử trong lòng của người cháu.
Giờ đây, tác giả đã sống xa quê, đã rời xa vòng tay người bà. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng hình ảnh bà mãi là một dấu ấn khó phai. Tình cảm ấy đã trở thành bất tử trong tâm hồn tác giả.
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?..
Dù cho tác giả đã hoàn thành nguyện ước của bà, đã là thành đạt, sống có ích cho đời . Nhưng lòng tác giả vẫn luôn hướng về cội nguồn sinh dưỡng của mình. Có lẽ tác giả sẽ mãi không bao giờ quên hình ảnh cái bếp lửa bà nhóm cùng tình yêu thương bao la của bà. Tác giả luôn luôn tự hỏi với lòng: bà bây giờ sống như thế nào? Có khỏe mạnh hay không? bà nhóm bếp lên chưa? Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ của người cháu luôn đau đáu một nỗi nhớ với gia đình, quê hương.
Tác giả đã sử dụng rất sáng tạo hình ảnh cái bếp lửa và ngọn lửa để biểu tượng cho tình yêu vô bờ bến của bà dành cho người cháu. Ngoài ra việc sử dụng linh hoạt tự sự, miêu tả và biểu cảm đã càng tăng thêm sự xúc cảm cho bài thơ và biểu lộ cảm xúc của tác giả chân thực, rõ nét hơn.
Tóm lại qua đoạn thơ trên ta lại càng hiểu hơn về hình ảnh người bà cũng như là những phẩm chất thiêng liêng cao quý của người phụ nữ Việt. Bà mãi mãi là tín ngưỡng đẹp nhất trong tâm hồn người cháu.