1. Mở bài
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam – Danh nhân văn hóa thế giới. Tên tuổi của ông gắn liền với kiệt tác “Truyện Kiều”. Một trong những đoạn trích nổi bật của truyện Kiều là “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” mà tiêu biểu là tám câu thơ cuối được coi là những câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất, đặc sắc nhất trong “Truyện Kiều”:
“ Buồn trông cửa bể chiều hôm
{…..}
Ầm ầm tiếng sóng quay quanh ghế ngồi”
Đoạn trích đã thể hiện tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
2. Thân bài
Diễn tả tâm trạng của Kiều Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như khi ngụ tình. Mỗi biểu hiện của cảnh phù hợp với từng trạng thái của tình. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời cũng là một ẩn dụ về tâm trạng con người. Mỗi cảnh gợi cho Kiều những lý do buồn khác nhau. Trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh khiến cảnh mỗi lúc một buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc ghê gớm, mãnh liệt hơn.Hai câu thơ đầu đoạn trích là bức tranh về không gian mênh mông nơi cửa biển chiều hôm:
“Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Nguyễn Du đã miêu tả cảnh vào thời gian buổi chiều. Đây là thời điểm thưởng gọi tâm trạng buồn, nhớ, không gian là “cửa bể”. Đặc biệt “cánh buồm thấp thoáng xa xa” là hình ảnh rất “đắt” để thể hiện nội tâm là Kiều. Cảnh vật gợi lên nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương, nhớ người than. Hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi, đơn độc giữa mênh mông biển nước “thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Trong ánh sáng lẻ loi của mặt trời sắp tắt. Cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại, trong cảnh tha hương, nhìn về phương xa với nỗi buồn, nhớ da diết nhớ về cha mẹ, gia đình, quê hương. Từ láy “thấp thoáng”, “xa xa” gợi hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi, mờ nhạt. Con Thuyền gần như mất hút vẫn còn lênh đênh trên mặt nước khi mà những con thuyền khác đã cập bến, đã neo đậu cũng như Kiểu Còn lênh đênh giữa dòng đời biết bao giờ mới sum họp gia đình. Hơn thế nữa khung cảnh buổi chiều còn gọi tâm trạng buồn, gợi nỗi nhớ nhà, bởi đó là thời gian sum họp. Như vậy hình ảnh con thuyền xa xa nơi cửa bể, chiều hôm đã gợi nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương, gia đình, người than, gợi nỗi khao khts sum họp. Nhưng khao khát đó rất mong manh mờ nhạt. Hình ảnh đó còn gợi thân phận cô đơn, lẻ loi, lênh đênh giữa sóng nước cuộc đời của Kiều.
Hai câu thơ tiếp theo:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Nhìn những cánh hoa lụi tàn dưới ngọn nước mới sa khiến Kiều càng buồn hơn bởi nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình đang lênh đênh, vô định “ba chìm bảy nổi” giữa sóng nước cuộc đời không biết rồi sẽ trôi đi đâu về đâu? sẽ bị vùi dập ra sao, từ đó Kiều lo lắng cho tương lai vô định của mình. Câu hỏi tu từ đã diễn tả nỗi buồn, lo lắng đó.
Tiếp theo là cảnh nội cỏ nhạt nhòa mênh mông:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
“nội cỏ rầu rầu”, “xanh xanh” là sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất. Màu cỏ gợi lên sự sống úa tàn, buồn bã. Ở đây ta lại bắt gặp màu cỏ rầu rầu, héo úa giống như trong câu thơ: “Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”. Màu cỏ đó gợi đến sự tàn tạ, chết chóc chứ không phải màu của sức sống trong câu thơ: “Cỏ xanh con rợn chân trời”. Nguyễn Du đã thật tài tình khi miêu tả cảnh cỏ ở đây, bởi cảnh “nội cỏ rầu rầu” từ chân mây đến mặt đất gợi cho Kiều nỗi chán trường, vô vọng về một cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh không biết bao giờ mới kết thúc , Kiều cảm thấy tương lai mình mờ nhạt.
Khi nhìn cảnh” gió cuốn mặt duyền” thì dường như nỗi buồn càng lúc, càng tăng, càng dồn dập một cơn gió cuốn mặt duyền làm các tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế kiểu nhà
“Buồn trông gió cuốn mặt duyền
Ầm ầm tiếng sóng quanh ghế ngồi”
Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là cái dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã và đang đổ xuống cuộc đời nàng. Và còn tiếp tục đè nặng con người nhỏ bé ấy. Lúc này Kiểu không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Ở đây Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng từ láy “ẩm ầm” để miêu tả âm thanh dữ dội tiếng song. Nỗi buồn đã dâng đến tột đỉnh khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Ngọn gió cuốn mặt duyềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hung. Giông tố cuộc đời nàng như đang bủa vây, nhấn chìm một than phận nhỏ nhoi như Kiều. Cảnh tượng ấy như báo trước giông tố của số phận sẽ nổi lên xô đẩy, vùi dập cuộc đời nàng và ngay sau lúc này Kiều đã mắc lừa sở khanh để rồi lâm vào cảnh “ thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”
Khái quát: Như vậy mỗi biểu hiện của cảnh từ cảnh chiều tà, đến bờ biển, từ cánh buồm thấp thoáng, cánh hoa trôi man mát, đến nội cỏ rầu rầu cuối cùng là tiếng sóng ầm ầm đều thể hiện tâm trạng và cảnh ngộ của Kiều: Sự lênh đênh, vô định, nỗi buồn tha hương, lòng thương nhớ người yêu, cha mẹ và cả sự bàng hoàng, lo sợ. Đúng là cảnh ở lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mát đến mông lung, lo âu, kinh sợ. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo đó là được nhìn qua tâm trạng theo quy luật tâm lý:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được khắc họa qua điệp từ “ buồn trông” , điệp từ “buồn trông” kết hợp với các từ ngữ đứng sau diễn tả nỗi buồn về những sắc thái khác nhau. Đồng thời điệp ngữ kết hợp với những từ láy tượng thanh, tượng hình “thấp thoáng”, “ xa xa”, man mát, rầu rầu, xanh xanh ,ầm ầm… Diễn tả được nỗi lo âu ngày một tăng lên lớp lớp trong lòng ”buồn trông” đã trở thành điệp khúc của cảnh và cũng là điệp khúc của tâm trạng.
3. Kết bài
Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những câu thơ hay nhất của “Truyện Kiều”, đã miêu tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Kiều trong hoàn cảnh cô đơn. Nguyễn Du đã thành công khi sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, đây cũng là bút pháp nghệ thuật đặc sắc tạo nên sức hấp dẫn và vẻ đẹp của truyện trung đại nói chung và “Truyện Kiều” nói riêng. Đoạn trích được đánh giá là tuyệt bút của bút pháp tả cảnh ngụ tình tiêu biểu cho tài năng bậc thầy và tấm lòng nhân đạo cao cả của thiên tài văn học Nguyễn Du.