Nguyễn Đăng Mạnh là một nhà nghiên cứu đầu ngành của văn học Việt Nam. Văn bản Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ là một phần trong công trình nghiên cứu của ông về nhà văn Nguyên Hồng. Bằng niềm đồng cảm, sự trân trọng với Nguyên Hồng, Nguyễn Đăng Mạnh đã chứng minh Nguyên Hồng là nhà văn nhạy cảm, khao khát tình yêu thường và đồng cảm với những người cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Nguyên Hồng xứng đáng được coi là nhà văn của những người cùng khổ
Văn bản có bố cục ba phần rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Phần đầu tác giả chứng minh Nguyên Hồng là con người nhạy cảm; phần thứ hai ông làm sáng tỏ tuổi thơ thiếu tình thương của Nguyên Hồng; phần còn lại nói về hoàn cảnh sống cực khổ của Nguyên Hồng. Từ đó, Nguyễn Đăng Mạnh làm sáng tỏ được phẩm chất và những nét riêng biệt làm nên phong cách văn chương của Nguyên Hồng.
Trước hết, Nguyễn Đăng Mạnh giúp người đọc hiểu Nguyên Hồng là con người nhạy cảm (rất dễ xúc động, rất dễ khóc). Nguyên Hồng đã khóc biết bao lần! Khóc khi nhớ đến bạn bè, đồng chí từng chia bùi sẻ ngọt. Khóc khi nghĩ đến đời sống khổ cực của nhân dân mình ngày trước. Khóc khi nói đến công ơn của Tổ quốc, quê hương đã sinh ra mình, đến công ơn của Đảng, của Bác Hồ đã đem đến cho mình lí tưởng cao đẹp của thời đại. Khóc khi kể lại những nỗi đau, oan trái của những nhân vật. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ: liệt kê, điệp cấu trúc “Khóc khi….”, hình ảnh so sánh “ mỗi dòng chữ ông viết ra là một dòng nước mắt nóng bỏng từ trái tim vô cùng nhạy cảm của mình”. Giọng văn thấm thía, xúc động với những câu văn có nhịp điệu, giàu hình ảnh, cách dùng từ ngữ có tính chất khẳng định, Nguyễn Đăng Mạnh làm nổi bật tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động của Nguyên Hồng. Chính sự nhạy cảm, dễ khóc, dễ xúc động là sợi dây kết nối tâm hồn Nguyên Hồng với bao số phận bất hạnh trong xã hội.
Điều gì làm nên tính nhạy cảm, dễ thông cảm với những người bất hạnh của Nguyên Hồng? Một trong những lí do lớn mà tác giả Nguyễn Đăng Mạnh đưa ra là do nhà văn trải qua thời thơ ấu thiếu tình thương. Đầu tiên phải nói đến hoàn cảnh sống thời ấu thơ của nhà văn đầy bất hạnh. Giọng văn lắng xuống xúc động khi Nguyễn Đăng Mạnh kể về hoàn cảnh cơ cực của chú bé Hồng trong tập hồi kí của nhà văn.Tập hồi kí chính là khúc tâm tình về tuổi thơ cay đắng của Nguyên Hồng. Đó là cảnh mồ côi cha từ năm 12 tuổi, mẹ đi thêm bước nữa và thường làm ăn xa, sinh ra trong cuộc hôn nhân ép uổng. Vì cảnh ngộ éo le, gia đình chồng khinh ghét nên mẹ Hồng không thể gần gũi Hồng.
Hơn nữa, thời thơ ấu của nhà văn Nguyên Hồng phải sồng trong sự cô đơn, bị khinh ghét: không được gần mẹ; phải sống nhờ vào bà cô cay nghiệt- luôn có ý muốn chia rẽ tình cảm mẹ con Hồng.Nguyên Hồng tủi thân và khao khát tình mẫu tử: “Giá ai cho tôi một xu nhỉ…“Không! Không có ai cho tôi cả. Vì người ta có phải mẹ tôi đâu!”. Tuổi thơ của Nguyên Hồng thiếu thốn tình cảm gia đình, khao khát cả vật chất lẫn tình thương nên hình thành trong ông tính nhạy cảm, dễ thông cảm với người bất hạnh.
Một lí do quan trọng khác để khẳng định Nguyên Hồng là nhà văn của nhân dân lao động chính là “chất dân nghèo, chất lao động” ở nhà văn. “Chất dân nghèo” ấy là do hoàn cảnh sống cực khổ của nhà văn. Từ thời cắp sách đến trường: lặn lội với đời sống dân nghèo để tự kiếm sống bằng những nghề nhỏ mọn, chung đụng với mọi hạng trẻ hư hỏng và các lớp cặn bã. Năm 16, khi đến Hải Phòng: càng nhập hẳn với cuộc sống của hạng người dưới đáy thành thị. Điều đó tạo nên “chất dân nghèo, chất lao động“. Ngay vẻ ngoài của nhà văn Nguyên Hồng cũng thấm đẫm chất lao động thoạt đầu tiếp xúc không thể phân biệt với những người dân lam lũ hay những bác thợ cày nước da sạm màu nắng gió. Rồi đến lối sinh hoạt như thói quen ăn mặc, đi đứng, nói năng, thái độ giao tiếp, ứng xử, thích thú riêng trong ăn uống,…cũng của người lao động nghèo. Chất dân nghèo, lao động thấm sâu vào văn chương ông. Mỗi trang văn của Nguyên Hồng được chắt ra từ cuộc đời và con người thực của ông. Nguyễn Đăng Mạnh dùng những cụm từ thật đắt như “chất dân nghèo, chất lao động”để bình luận, đánh giá sự hòa nhập giữa con người và phong cách sống và văn chương của Nguyên Hồng thật thấm thía. Chi tiết lời kể của bà Nguyên Hồng được đưa vào bài viết như một minh chứng sinh động nhất, gần gũi nhất giúp người đọc hình dung ra “chất dân nghèo, chất lao động”
Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã gửi vào bài viết của mình biết bao tình cảm yêu mến, đồng cảm và trân trọng với Nguyên Hồng. Ông đồng cảm với cuộc đời nhiều bất hạnh, đáng thương của nhà văn Nguyên Hồng. Từ bài viết, người đọc nhận thấy tác giảg biết ơn, ngợi ca những nét đẹp trong tâm hồn nhà văn Nguyên Hồng, đồng thời làm nổi bật tình yêu thương của Nguyên Hồng dành cho những người cùng khổ.
Tóm lại, văn bản Nguyên Hồng- nhà văn của những người cùng khổ là văn bản nghị luận đặc sắc.Với hệ thống lí lẽ sắc bén; dẫn chứng chân thực, thuyết phục; sử dụng một số biện pháp tu từ: liệt kê, so sánh, điệp, giọng văn chân thành xúc động, Nguyễn Đăng Mạnh xứng đáng là nhà nghiên cứu đầu ngành của văn học hiện đại Việt Nam. Qua văn bản, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh đã chứng minh Nguyên Hồng là nhà văn nhạy cảm, khao khát tình yêu thường và đồng cảm với những người cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Sự đồng cảm và tình yêu người đặc biệt ấy xuất phát từ chính hoàn cảnh xuất thân và môi trường sống của ông. Nguyên Hồng xứng đáng được coi là nhà văn của những người cùng khổ.
- Phân tích bài thơ “À ơi tay mẹ” – Ngữ văn 6 Cánh diều
- ÔN TẬP HÈ MÔN VĂN LỚP 6 SÁCH CÁNH DIỀU