Soạn bài Chiếc lược ngà – Tác giả, tác phẩm, dàn ý chi tiết

I.Tìm hiểu chung

1. Tác giả

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– 1966: Khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Được đưa vào tập truyện cùng tên.

b. Ngôi kể

Ngôi thứ nhất: Nhân vật bác Ba-nhân vật phụ, người chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con ông Sáu.
– Tác dụng:
+ Làm câu chuyện khách quan, chân thực, tạo độ tin cậy cho người đọc. + Chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình.
+ Có thể trực tiếp bày tỏ cảm xúc, thái độ đối với sự việc hoặc nêu ý kiến bình luận, suy nghĩ của bản thân.

c. Ý nghĩa nhan đề

– Tên chuyện là “Chiếc lược ngà” bởi chiếc lược ngà là chi tiết trung tâm gắn kết cuộc đời các nhân vật và góp phần khắc họa sâu sắc nội dung câu chuyện.
– Trước hết, chiếc lược ngà là cầu nối tình cảm thiêng liêng giữa hai cha con ông Sáu. Là ước mơ bình dị của cô con gái nhỏ, nó thúc giục người cha “cỗ công” và “tỉ mẫn” làm cây lược ngà để thực hiện mơ ước chảy bỏng của một người cha tha thiết yêu thương.
– Nó là kỉ vật duy nhất của người cha vô cùng yêu thương con, để lại cho con trước lúc hy sinh. Nó trở thành biểu tượng thiêng liêng bất diệt của tình cha con.
– Nó còn là sự trao gửi thiêng liêng của người cán bộ cách mạng cho đứa con gái của người đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường.
– Hình ảnh chiếc lược ngà còn mang số phận éo le, góp phần khắc sâu và ngợi ca tình cảm cha con sâu nặng thiêng liêng trong cảnh ngộ éo le chiến tranh.

d.Tóm tắt

– Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi mới có dịp về thăm nhà. Ông hi vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách chưa một lần gặp măt.
– Máy ngày đầu bé Thu không nhận ba do vết thẹo trên mặt ông Sáu làm ông không giống với người cha chụp chung bức hình với má mà em biết. Em đối xử với ba như với người xa lạ.
– Lúc nghe bà ngoại nói, bé Thu nhận ra cha, tình cha con trỗi dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu nhớ con vào việc làm ra một chiếc lược ngà tặng con.
– Nhưng chưa kịp trao tận tay con, ông đã hi sinh trong một trận càn. Lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con.

II. Tìm hiểu chi tiết

1. Tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống truyện.

– Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu bé Thu không nhận ra ông Sáu là ba. Đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm mãnh liệt thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường.
=> Ý nghĩa: Đây là tình huống cơ bản của truyện, nhằm bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu đối với cha.

– Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm thương nhớ con vào việc làm ra một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp tặng con thì ông đã hy sinh, lúc hấp hối ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con. → Ý nghĩa: Bộc lộ tình cảm ông Sáu dành cho con. Qua đó cũng tô đậm những đau thương mất mát trong chiến tranh.

2. Diễn biến tâm lý và tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu.

a. Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha.

Khi mới gặp ở bến xuồng:
Nghe ông Sáu gọi tên mình, nó giật mình, tròn xoe mắt, hốt hoảng.
– Mặt tái mét đi, hoảng sợ kêu thét gọi mà.

*Trong những ngày ông Sáu nghỉ phép ở nhà:

-Nó tìm cách xa lánh ông Sáu, thậm chí còn phản ứng lại:
+ Kiên quyết không chịu gọi “ba”, khi bị má dọa đánh nó buộc
phải gọi ông Sáu nhưng lại nói trong “vô ăn cơm”.
+ Lúc cơm sôi, không thể tự chắt nước nồi cơm nhưng nó vẫn nhất quyết không chịu gọi ba chắt giúp. Nó tự lấy cái vá múc nước ra.
+ Trong bữa ăn, nó hất tung cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho khiến ông Sáu tức giận đánh nó. Nhưng nó không khóc mà bỏ sang nhà ngoại, khi xuống xuồng cố ý khua dây xuồng kêu rỗn rảng thật to.
– Nó tìm cách xa lánh ông Sáu, thậm chí còn phản ứng lại:
+ Kiên quyết không chịu gọi “ba”, khi bị má dọa đánh nó buộc phải gọi ông Sáu nhưng lại nói trong “vô ăn cơm”.
+ Lúc cơm sôi, không thể tự chắt nước nồi cơm nhưng nó vẫn nhất quyết không chịu gọi ba chắt giúp. Nó tự lấy cái vá múc nước ra.
+ Trong bữa ăn, nó hất tung cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho khiến ông Sáu tức giận đánh nó. Nhưng nó không khóc mà bỏ sang nhà ngoại, khi xuống xuồng cố ý khua dây xuồng kêu rổn rảng thật to.
=> Bé Thu là một cô bé bướng bỉnh, gan lì đến bác Ba cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được phải thốt lên “Sao mày cứng đầu quá vậy hả?”. Nhưng chính cái thái độ ngang ngạnh ấy lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cha con. – Thái độ của Thu không hề đáng trách, vì: Trong hoàn cảnh xa cách của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le và người lớn cũng chưa kịp giải thích chuẩn bị cho nó đón nhận những bất thường nên nó không tin ông Sáu là ba chỉ vì vết thẹo.
– Phản ứng càng tự nhiên càng chứng tỏ tình cảm sâu sắc mà em dành cho ba, em chỉ yêu ba khi biết chắc đó là ba. Trong cái “cứng đầu” của em ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về tình cảm dành cho người cha “khác” – người trong bức hình chụp chung với má.

b. Thái độ và hành động của bé Thu khi nhận ra cha.

– Khi nghe bà ngoại giải thích, Thu hiểu vết thẹo trên mặt ba nó là vết thương trong chiến đấu, nó cả đêm “lăn lộn, không ngủ được”. Có lẽ, nó thương ba nó lắm.

– Trong buổi sáng chia tay, trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé Thu khác hẳn: “Vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu” và đôi mắt “nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.
– Khi ông Sáu nhìn con, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.
– Lúc ông Sáu chào từ biệt “tình cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó”, “nó bỗng kêu thét lên- Ba…a…a…ba”. Rồi nó chạy tới ôm chặt ba nó và hôn, nó hôn lên cả vết thẹo mà trước đó nó rất sợ.
– Tiếng gọi như tiếng xé, xé cả sự im lặng và ruột gan mọi người. Tiếng kêu ấy không còn là biểu hiện của sự sợ hãi mà là tiếng kêu của tình yêu ruột thịt. Nó chạy tới, ôm lấy cổ ba nó, nói trong tiếng khóc: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con”.
– Lúc này, Thu hiểu và thương ba,muốn xoa dịu nỗi đau của ba. Giờ đây cô bé mới vỡ lẽ ra: Người cha của nó thật đẹp, anh hùng. Chính tình cảm của em đã khiến ông Sáu xúc động, những giọt nước mắt hiếm hoi lăn dài trên má. Điều này khiến những người chứng kiến cũng không khỏi xúc động.
Mọi hành động của em lúc này đều gấp gáp, dồn dập, cuống quýt vì bao tình cảm bấy lâu nay dồn nén đã bùng ra mạnh mẽ.
→ Qua những biểu hiện tâm lý và hành động của bé Thu, ta cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ và dứt khoát, rạch ròi ở Thu. Sự ngang bướng ở em là biểu hiện một cá tính mạnh mẽ, tuy nhiên Thu vẫn là một em bé hồn nhiên, ngây thơ. Điều này chứng tỏ tác giả rất am hiểu tâm lý trẻ thơ và yêu mến, trân trọng những tình cảm của các em, nhờ thế mà đã có những trang viết sinh động và cảm động.

3. Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu.

a. Khi còn ở rừng.

Nhớ thương con, khao khát được gặp con, sống trong tình yêu con.

b. Khi gặp con ở bến xuống.

– Trở về sau tám năm xa cách, không thể chờ thuyền chờ cập bến mà nhón chân nhảy thót lên bờ, xua xuồng tạt ra. Rồi ông bước vội những bước dài, kêu to tên con, khom người dang tay đón.
– Khi gặp con, vết theo dài trên má đỏ ửng, giần giật, giọng lắp bắp, run run: “Ba đây con”. Nỗi nhớ khiên ông không kìm nổi sự vội vàng.
– Khi con không nhận ra, bỏ chạy “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiên mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuông như bị gãy”. Đó là tâm trạng đau khổ, hụt hẫng, thất vọng.

c. Trong ba ngày nghỉ phép ở nhà.

– Ông chẳng dám đi đậu xa, tìm cách gần gũi con để hi vọng được nghe tiếng gọi ba.
– Mọi sự cố gắng của ông từ việc giả vờ không nghe đến việc dồn nó vào thể bí chắt nước nồi cơm sôi, đều không có kết quả.
– Trong bữa ăn do nôn nóng, thiếu bình tĩnh, ông đã đánh con. Ông không trách cứ mà chỉ lắc đầu cam chịu, vì tình cảm không dễ gì gượng ép. Lúc chia tay, sợ con lại bỏ chạy “anh chỉ đứng nhìn nó, anh nhìn với đôi mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu”.
– Khi con nhận ra ba, gọi ba ông đã xúc động đến phát khóc “rút khăn lau nước mắt”. Đó là giọt nước mắt hạnh phúc của người cha.

d. Khi trở về khu căn cứ.

– Ông day dứt ân hận mãi vì đã nóng giận đánh con.
– Lời dặn ngây thơ của con ngày chia tay luôn vang lên trong tâm trí đã thôi thúc ông cố công làm ra chiếc lược ngà.
– Khi kiếm được khúc ngà, ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”, rồi ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm ra cây lược: “Anh của từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc” và khắc lên đó dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu – con của ba”.

– Chiếc lược phần nào gỡ rối được tâm trạng người cha. Nhớ con, ông mang cây lược ra mài lên tóc cho thêm bóng thêm mượt.

– Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân, sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất, kết tinh tình phụ tử mộc mạc mà kỳ diệu.

– Nhưng rồi chưa kịp trao cho con, ông đã hy sinh trong một trận càn của giặc. Lúc hấp hối, ông trao cây lược cho người đồng đội nhờ trao tận tay cho con ông mới nhắm mắt.

→ Cử chỉ ấy cho ta hiểu tình cha con thắm thiết và mãnh liệt của ông Sáu. Đó là ước nguyện cuối cùng của tình phụ tử.

4. Đặc sắc nghệ thuật

Cốt truyện chặt chẽ, tình huống truyện bất ngờ nhưng hợp lý.
Lựa chọn ngôi kể và nhân vật kể thích hợp. Ngòi bút miêu tả tâm lý và tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em thành công.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *