[Tài liệu văn 11] Phân tích bài thơ “Tràng giang”

TRÀNG GIANG – HUY CẬN

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. TÁC GIẢ
1. Tiểu sử
– Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Dương Sơn, Hà Tĩnh. Mất năm 2005.
– Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận đi học (Tú tài, Cao đẳng Canh nông…) và hoạt động Văn học. Từ đầu năm 1942, vừa học Canh nông vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7 – 1945, tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào ủy ban dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại. Là Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm Thời.
– Sau Cách mạng Huy Cận trải qua các vị trí. Từ 5 – 11 năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội Vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là Thứ trưởng Bộ Canh nông (12 – 1946 đến 7 – 1947) rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế (1947 – 1949). Từ 1949 đến 1955: Thứ trưởng, Tổng thư kí Hội đồng Chính phủ. Từ 1955 đến 1984: Thứ trưởng Bộ Văn hóa; từ tháng 9 – 1984: Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhà thơ còn là Đại biểu Quốc hội khóa I, II và VII. Được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt I – 1996).
2. Sự nghiệp sáng tác
a. Thơ
Lửa thiêng (1940); Vũ trụ ca (1942); Trời mỗi ngày lại sáng (1958); Đất nở hoa (1960); Bài thơ của đời (1963); Hai bàn tay em (1967); Phù Đổng Thiên Vương (1968); Những năm 60 (1968); Cô gái Mèo (1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973); Chiến trường gần chiến trường xa (1973); Những người mẹ, những người vợ (1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (1976); Ngôi nhà giữa nắng (1978); Hạt lại gieo (1984); Tuyển tập Huy Cận tập I (1986); Chim làm ra gió (1991); Tào Phùng (1993); Thơ tình Huy Cận (1994); Marées de la Mer orientale Paris (1994); Tuyển tập Huy Cận II (1995); Thiên việt lương việt lãng (Bắc Kinh, 1959); Messages stellaires et terrestres (Canada, 1996); Thơ Huy Cận (1996).
b. Văn
Tâm sự gái già (1940); Kinh cầu tự (1942); Suy nghĩ về nghệ thuật (1980 – 1982); Culture et politique république socialiste du Việt Nam – Paris (1985); Một cuộc cách mạng trong thi ca (Chủ biên cùng Hà Minh Đức, 1993); Suy nghĩ về bản sắc dân tộc (1994); Các vùng văn hóa Việt Nam (Chủ biên cùng Đinh Gia Khán, 1995); Culture Vietnamienne (traditionnelle et contemporaine, 1997).
3. Phong cách thơ
– Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Ðây là nhà thơ có cái nghiêng tai kì diệu (Xuân Diệu). Huy Cận cảm nhận được trọn vẹn từ những mùi vị dân dã của đất đai đồng ruộng đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, để rồi nói lên linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong trẻo, dễ rung động lòng người.
– Thiên nhiên, quê hương đất nước là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ Huy Cận. Nếu ở Xuân Diệu, thiên nhiên thường sực nức hương vị và ngôn ngữ ái tình thì ở Huy Cận, núi sông cây cỏ bao giờ cũng lặng lẽ, bình thản như tâm hồn tác giả. Không thể hình dung được thơ Huy Cận sẽ ra sao nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió biếc, biển rộng, sông dài… Nhưng thơ ấy không thuộc loại thơ điền viên, bởi trước sau tác giả vẫn luôn nặng lòng đời, luôn có ý thức phát hiện rồi khẳng định sự hài hòa giữa con người với tự nhiên; để mở rộng biên giới những xúc cảm, nâng tầm nhận thức về sự tồn tại của con người. Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình (Xuân Diệu).
– Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực: vũ trụ – cuộc đời, sự sống – cái chết, nỗi buồn – niềm vui, hiện thực – lãng mạn.
– Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len lỏi, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi.
II. TÁC PHẨM
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Năm 1939 vào một chiều thu, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm (Hà Nội), lặng ngắm toàn cảnh sông Hồng mênh mông tĩnh vắng, chạnh nhớ tới kiếp người nhỏ bé nổi trôi giữa dòng đời vô tận. Một nỗi buồn rợn ngợp dấy lên từ đáy hồn thi sĩ, bủa trùm trời đất và lòng người. Nỗi buồn vừa gợi hứng sáng tác, vừa là cốt lõi của cảm xúc thơ. Huy Cận đã từng tâm sự: “Tôi có thú vui thường vào chiều Chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm vẽ để ngoạn cảnh sông Hồng và hồ Tây. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương”.
– Tràng giang là bài thơ đặc sắc của Huy Cận, đồng thời là bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới được in trong tập Lửa thiêng xuất bản năm 1940.
2. Nội dung
Tràng giang là một bức tranh thiên nhiên sông nước hầu như đã trở thành cổ điển, mà linh hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu mênh mang. Qua mỗi khổ thơ, tác giả điểm thêm một nét buồn nào đó. Tất cả những nét buồn ấy cứ trở đi trở lại vẫn là bát ngát mênh mông mà hoang vắng và có một cái gì đó tàn lụi, cô đơn, bơ vơ trôi nổi, chia lìa, phiêu bạt. Đây là nỗi buồn cô đơn rợn ngợp của cá thể trước không gian ba chiều bao la, luôn luôn có niềm khát khao hoà hợp cảm thông giữa người và người trong tình đất nước và tình nhân loại. Và nó cũng đã thể hiện được tình cảm sâu nặng, tha thiết, cảm xúc mãnh liệt trước vẻ đẹp của thiên nhiên, là tấm lòng da diết nhớ quê nhớ nhà.
3. Ý nghĩa nhan đề
– Nhan đề của các thi phẩm nhiều khi bao quát được những nội dung tư tưởng chủ đạo, những cảm hứng tư tưởng nổi bật của bài thơ. Huy Cận cũng đã chọn cho thi phẩm của mình một nhan đề rất hàm súc và đích đáng.
– Tràng giang cũng chính là “Trường Giang” có nghĩa là sông dài. Nhưng nhà thơ không viết “Trường Giang” mà lại viết Tràng giang tạo nên phép điệp âm “ang”, một âm mở, và nhờ vậy còn gợi lên hình ảnh một con sông lớn, sông rộng.
– Tràng giang lại là một từ Hán Việt cổ điển nên cũng kín đáo gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời. Dòng “tràng giang” vì vậy không chỉ có chiều dài, chiều rộng địa lí mà còn có chiều sâu của thời gian lịch sử. Đó là con sông như đã chảy từ ngàn xưa, đã trầm tích vào trong mình chiều sâu của hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hoá, và dường như đã chảy qua biết bao áng cổ thi: Duy kiến Trường giang thiên tế lưu (Lí Bạch). Con sông vì vậy trở nên dài hơn rộng hơn mênh mang hơn xa xôi hơn vĩnh viễn hơn trong tâm trí người đọc.
⇒ Nhan đề Tràng giang đã gợi lên một hình tượng độc đáo, không gian lớn lao có tầm vũ trụ, vốn là niềm say mê của hồn thơ Huy Cận.
4. Lời đề từ của tác phẩm
– Ý nghĩa của nhan đề bài thơ càng được tô đậm hơn qua lời đề từ của tác phẩm: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Đó là câu thơ được rút ra trong bài thơ Nhớ hờ của tập Lửa thiêng.
– Các hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi những phạm vi không gian khác nhau từ cao đến thấp; xa đến gần một không gian lớn lao, mênh mang có tầm vũ trụ. Hình ảnh không gian này còn trở đi trở lại trong bài thơ: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Nếu “bâng khuâng” là cảm giác xao xuyến, trống trải của con người khi đối diện trước không gian mênh mang rộng lớn, thì “nhớ” lại là hoài niệm của con người về điều gì đó đã xa khuất trong thời gian, trong không gian. Cả dòng thơ đã bộc lộ thành thực nỗi niềm tâm trạng con người khi đối diện trước thời gian, không gian; bộc lộ nỗi khắc khoải không gian của hồn thơ Huy Cận: Huy Cận như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian (Xuân Diệu); Người thấy lạc loài giữa cái mênh mông của không gian, cái xa vắng của thời gian, lời thơ vì thế mà buồn rười rượi (Hoài Thanh).
⇒ Lời đề từ của bài thơ được lựa chọn rất tinh tế, hàm súc, tài hoa đã khái quát được cảm hứng tư tưởng trung tâm nổi bật của bài thơ, đồng thời in đậm dấu ấn của hồn thơ Huy Cận, nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian, nỗi sầu nhân thế (Chế Lan Viên).
5. Nghệ thuật
– Cách dùng và sử dụng những hình ảnh đối lập: “củi một cành ↔ mấy dòng”; “nắng xuống ↔ trời lên”; “sông dài ↔ trời rộng bến cô liêu”; “không khói ↔ nhớ nhà”…
– Cách dùng từ láy chỉ tâm trạng, môi trường thiên nhiên, không gian (tác giả dùng mười từ láy trong bài) như: “tràng giang”, “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, “mênh mông”, “lặng lẽ”, “lớp lớp”, “dợn dợn”.
– Biện pháp nghệ thuật tượng trưng: Củi một cành khô lạc mấy dòng; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu; Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
– Những hình ảnh màu sắc đẹp như: bờ xanh tiếp bãi vàng, mây cao đùn núi bạc, chim nghiêng cánh, khói sóng.
B. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
I. Khổ 1 
1. Hình ảnh sóng nước và con thuyền giữa mênh mông
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
“Tràng giang” dài rộng đang trải ra từng đợt sóng “điệp điệp” không dứt. Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra từng đợt “điệp điệp” như những lớp sóng cùng con thuyền quen thuộc thả mái chèo “song song” xuôi dòng.
– Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man, miên man. Trên dòng sông gợi sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi đi.
– Hai câu thơ của Huy Cận làm ta nhớ tới hai câu thơ trong bài thơ nổi tiếng Đăng cao của Đỗ Phủ:
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
(Mênh mông cây rụng hiu hiu trái
Cuồn cuộn trường giang chảy chảy mau.)
Điều khác biệt mà người đọc nhận ra trước tiên là trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng “tràng giang” dài và rộng bao la không biết đến nhường nào. Vì vậy, không gian trong Tràng giang vừa mở ra chiều rộng, vừa vươn tới chiều dài: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.
– Động từ “gợn” diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng nhưng lại lan mãi không thôi. Nó gợi được nỗi buồn da diết khôn tả của thi nhân. “Điệp điệp” là một từ láy thật gợi hình, gợi cảm, vừa là hình ảnh vừa là tâm tư. Nó vừa gợi từng đợt sóng chồng chất, tầng tầng lớp lớp, vừa diễn tả “điệp điệp” nỗi sầu. Đúng là dòng nước đã đồng nghĩa với dòng sầu: Sông bao nhiêu nước dạ sầu bấy nhiêu (Ca dao). Con thuyền xuôi mái nước song song, “xuôi mái” là con thuyền nương theo dòng nước mà đi, nhưng cũng có thể hiểu là con thuyền bất lực với cả mái chèo của mình lênh đênh để dòng nước cuốn xuôi tận cuối chân trời mặc cho dòng đời xô đẩy, phiêu bạt, buông xuôi không bến đậu.
⇒ Hai câu thơ đã vẽ ra một vẻ đẹp buồn rất đặc trưng cho cảm hứng lãng mạn cái đẹp hài hòa miên viễn, nỗi buồn ảo não, đơn côi.
2. Dòng sông bát ngát vô cùng, nỗi buồn của con người đầy ăm ắp
– Sự cân bằng, đăng đối giữa thuyền và nước đã bị phá vỡ:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả.
+ Hình ảnh sông nước mênh mang cùng con thuyền nhỏ nhoi giữa dòng tạo nên sự đối lập gợi cho ta cảm giác cô đơn da diết. Từ xưa tới nay, “thuyền” và “nước” là hai hình ảnh luôn luôn gần gũi, gắn bó. Vậy mà ở đây, con thuyền lênh đênh mà dòng nước mênh mông như có một nỗi buồn chia li xa cách đương đón đợi: Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả.
+ Những con thuyền đã về hết, chỉ còn dòng sông mênh mang sóng nước. Vì thế, cảnh dễ gợi nỗi “sầu trăm ngả”. Từ “buồn điệp điệp” đến “sầu trăm ngả” là nỗi buồn không chỉ có bề sâu nữa mà còn được mở rộng ra “trăm ngả’.
+ Câu thơ vẽ ra hình ảnh con thuyền như mất hút vào cõi xa xôi giữa mênh mông sóng nước, giữa dòng tràng giang chia đi trăm ngả. Cũng như những gợn sóng gợi liên tưởng đến những gợn buồn trong câu thơ thứ nhất, nghệ thuật ẩn dụ trong câu ba lại đem đến cảm nhận tràng giang mênh mang, như một nỗi sầu muôn mối ngổn ngang trong lòng nhân vật trữ tình.
– Sự tương phản giữa một hình ảnh nhỏ nhoi lạc loài giữa mênh mông sóng nước:
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
+ Giữa con sông mênh mông mang nặng dòng nước sầu buồn chia li, “trăm ngả” gợi lên sự chia lìa cách biệt ấy hiện lên một “cành củi khô” trôi dạt lạc lõng bơ vơ, không biết rồi sẽ đi đâu về đâu trong dòng sông mông lung, vô định.
+ Ba câu thơ trên mang dáng dấp cổ điển thì đột nhiên câu cuối lại mang dáng dấp một câu thơ rất hiện đại. Tác giả đã đưa vào thơ ca những thi liệu sống của đời thường (Xuân Diệu). Hình ảnh củi một cành khô lạc mấy dòng là hình ảnh mới mẻ, gợi cảm, có nhiều sức biểu hiện. Đây không phải là thân gỗ xuôi dòng mà là một cảnh củi khô bập bềnh nổi trôi. Nó đã nói lên được cái trôi dạt, cô đơn, bơ vơ giữa mênh mông cuộc đời sóng gió. Từ một cành cây tươi xanh trên núi rừng đầu nguồn đến một cành củi khô dập dềnh nổi trôi, thân phận cỏ cây đã mấy lần tang thương khô héo, mấy lần trôi dạt đổi thay. Đó là thân phận cỏ cây hay số kiếp con người trong cuộc đời cũ? Cái tôi cô đơn, tội nghiệp của thơ ca lãng mạn đã tìm thấy sự tương đồng của nó trong “cành củi khô” lạc loài của thơ Huy Cận. Đột nhiên, nhà phê bình Hoài Thanh viết: Đời chúng ta nằm trọn trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ. Ta phiêu du trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư. Ta đắm say cùng Xuân Diệu. Ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng, lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta lại ngẩn ngơ buồn trở về cùng Huy Cận.
⇒ Từ những hình ảnh ẩn dụ tinh tế trong hình ảnh sóng nước, con thuyền và cành củi khô lạc loài trên tràng giang, từ phép đối trong ngôn từ và nhịp điệu toát ra một phong vị cổ kính, trầm mặc, Huy Cận đã không chỉ phác họa bức tranh thiên nhiên mênh mang hoang vắng, thiếu hơi ấm của sự sống con người mà còn bộc lộ sâu sắc nỗi buồn cùng cảm giác đơn độc, vô nghĩa của thân phận con người khi đối diện với dòng đời vô định ngổn ngang. Điều đó cũng tô đậm thêm nỗi buồn bát ngát, dằng dặc và sự chia lìa, bơ vơ.
II. Khổ hai 
1. Làng xóm đôi bờ sông trong buổi chiều tàn
– Nỗi lòng của nhân vật trữ tình được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo về những cồn nhỏ trên dòng sông:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu.
+ Tiếp tục hoàn chỉnh bức tranh trời rộng, sông dài với những chi tiết mới. Nó được mở rộng thêm đất thêm người. Nhưng nỗi buồn thi nhân ở đây dường như càng lan toả thấm sâu hơn trong từng cơn “gió đìu hiu” đưa lại từ một làng xa xôi – nơi một “cồn nhỏ” heo hút nào đó. Câu thơ này theo Xuân Diệu còn có thể hiểu ngay cả những âm thanh náo nức của cuộc sống dù chen lấn, bươn trải, xô bồ, hỗn độn nhưng có sức lôi cuốn vỗ về lòng người “cũng có đâu, đâu có”, nghĩa là tạo vật thống trị tuyệt đối.
+ Từ láy “lơ thơ” vừa gợi hình ảnh những doi đát nhỏ nhoi giữa mênh mông hoang vắng “tràng giang”, cũng vừa miêu tả những cây cối thưa thớt khẽ xao động trong gió sông hiu hắt. Cảm giác thiếu vắng sự sống xuất hiện từ khổ thơ thứ nhất tiếp tục đậm hơn trong sự vắng lặng khi ngọn gió buồn chỉ làm cây cối “lơ thơ” trên cồn đất giữa “tràng giang” khẽ khàng phơ phất…
+ Từ láy “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm. Nó không chỉ gợi buồn mà nó còn gợi cảm giác quá nhỏ nhoi, thưa thớt, quạnh quẽ, lạnh lẽo. “Đìu hiu” nói về hơi gió nhẹ đưa nỗi buồn lan tỏa khắp đất trời. Huy Cận rất lấy làm thích thú với những chữ này, cho rằng mình đã học được trong thơ nổi tiếng của Đoàn Thị Điểm:
Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
(Chinh phụ ngâm)
– Trong không gian tiêu điều, tàn tạ vắng buồn vẳng lên một âm thanh mơ hồ của cuộc sống con người:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
+ Bức tranh “tràng giang” tuy có cồn đất, có nắng, có bến, có làng, có chợ nghĩa là có hơi tiếng con người đấy nhưng vẫn không át được cái cảm giác tàn tạ, hiu hắt, quạnh vắng, buồn bã mênh mang. Bởi không gì buồn bằng cái chợ chiều tan tác.
+ Cấu trúc câu thơ đem đến nhiều cách hiểu. Nếu coi đây là một câu phủ định, “đâu” được hiểu là “không có”, “đâu có”, “chẳng có”… nhà thơ sẽ đem đến cảm giác: giữa không gian hoang vắng, hiu quạnh, lạnh buồn, nhân vật trữ tình khao khát lắng nghe những âm thanh thân thiết, những tiếng vọng ấm áp của cuộc đời, nhưng “đâu” tìm thấy. Còn nếu hiểu “đâu” là một danh từ chỉ hướng, chỉ một không gian xác định, “đâu” là “đâu đó”… thì câu thơ có âm thanh, nhưng vẫn không hề bớt buồn vắng. Bởi đó là những âm thanh mơ hồ “đâu đó”, lại bị đẩy về một “làng xa”, lại nhuốm phủ nỗi buồn của cảnh “chợ chiều” khi đã “vãn”. Câu thơ miêu tả âm thanh mà lại làm rõ hơn sự tĩnh lặng trong một hoàng hôn buồn thảm!
+ Và dù hiểu theo cách nào cũng cho thấy ước muốn của nhà thơ là bất lực khi hoặc không hề có âm thanh; hoặc những âm thanh quá xa xôi, mơ hồ; hoặc âm thanh chỉ có trong sự mong đợi khắc khoải của chủ thể trữ tình.
⇒ Hai câu thơ của Huy Cận mới đọc qua tưởng chúng không có quan hệ gì với nhau bởi không gian địa lí và hình thức câu thơ. Nhưng thực ra chúng đều cộng hưởng với nhau để làm nổi bật lên cái cô đơn, lạnh giá, lụi tàn của những kiếp người.
2. Bức tranh không gian ba chiều
– Không gian trời rộng, sông dài được đột ngột đẩy cao và mở ra bốn phía đến vô cùng làm cho cảnh bờ bãi của dòng sông vốn đã vắng vẻ lại càng trở nên “cô liêu” tĩnh mịch:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
+ Nếu “thuyền về” – “nước lại” là sự di chuyển theo chiều ngang, mở ra cái mênh mang tĩnh lặng của dòng sông thì “nắng xuống” – “trời lên” lại là sự di chuyển theo chiều dọc, tạo ra một khoảng không cao vời vợi, sâu thẳm của cả đất trời, sông nước.
+ Không gian ở đây được mở rộng ra nhiều chiều khó nắm bắt. “Nắng xuống – trời lên”, “sông dài – trời rộng” nhịp nhàng tạo nên một vũ điệu kì vĩ của vũ trụ. Tác giả dùng từ “sâu chót vót” chứ không phải “cao chót vót”. Từ “cao” chỉ độ cao vật lí của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Nó không chỉ gợi cho ta mối liên tưởng đó là vòm trời phản chiếu vào lòng sông tạo nên một không gian hun hút, thăm thẳm đến chới với, rợn ngợp mà còn gợi lên nỗi buồn cô đơn không đáy của hồn người trước cái vũ trụ vô cùng. Con người càng nhỏ bé cô đơn, bơ vơ hơn giữa vũ trụ bao la.
– Đối xứng với sự thăm thẳm của đất trời là cái mênh mang của sông nước:
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
+ Hình ảnh “sông dài” – “trời rộng” trong câu cuối của khổ thơ lại miêu tả một sự vận động khác: sông trải dài tít tắp, trời mở rộng bao la, cả một vũ trụ thăm thẳm vô biên đang lặng lẽ vận động trong một không gian đa chiều, và chính sự hùng vĩ, sâu thẳm, mênh mông của đất trời sông nước khiến bến sông trở thành “bến cô liêu” hoang vắng, quạnh hiu, đơn độc… Hình thức đối trong cổ thi được sử dụng linh hoạt trong câu thơ tạo nên sự hài hòa về hình ảnh và nhịp điệu khiến hình ảnh thơ “đẹp” và “buồn”.
+ Các tính từ được tác giả sử dụng như động từ (hay động từ hoá các tính từ) “dài”, “rộng”… vẽ ra những chuyển động ngược hướng làm cho “sông dài” như dài mãi, “trời rộng” như rộng vô cùng và bến sông cũng tăng thêm phần “cô liêu”, tĩnh mịch như tiền sử (thuở hồng hoang). Tác giả lại sử dụng nhiều tiểu đối… kèm theo các dấu phẩy ngắt câu thơ ra thành các cụm từ biệt lập giúp cho người đọc hiểu sâu hơn về một thực tại thiếu vắng những liên hệ, gợi cảm giác cô đơn da diết.
⇒ Như vậy, những cảm giác quạnh hiu, trống vắng đến đây đã được tác giả diễn tả thấm thía. Cảm hững vũ trụ và nỗi sầu nhân thế của cái tôi ảo não bởi sự nhỏ bé, cô đơn vẫn bao trùm trong hồn thơ Huy Cận.
3. Nhận xét chung về khổ thơ
– Qua khổ thơ ta thấy, nỗi buồn của thi nhân dường như bao phủ tất cả cảnh vật, vừa lan tỏa theo chiều rộng, vừa dâng đầy theo chiều cao của không gian. Đằng sau đó là tấm lòng của thi nhân đối với cuộc đời, quê hương đất nước.
– Khổ thơ cũng gợi được nhiều hình ảnh chân thực, bình dị, quen thuộc. Bởi thế, nó vẫn có thể khơi dậy trong tâm hồn hàng triệu độc giả tình yêu nước Việt Nam muôn đời.
III. Khổ 3
1. Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông
– Không bắt đầu bằng những câu thơ miêu tả như ở khổ thứ nhất và thứ hai, mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu hỏi băn khoăn nhuốm chút ngậm ngùi, buồn bã:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng.
+ Đến đây, bài thơ lại có thêm một hình ảnh gợi về sự tan tác chia lìa, nổi trôi phiêu dạt, dập vùi:
Phận bèo bao quản nước xa
Lênh đênh đâu cũng nữa là lênh đênh.
(Ca dao)
Đúng là một hình ảnh thơ rất gần gũi, thân quen mà giàu sức gợi. “Bèo dạt về đâu”, nhà thơ sống trong cảnh mất nước, nô lệ nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi nhưng không biết đi về đâu.
+ Cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn.
– Hình ảnh cánh bèo dập dềnh trôi nổi trên sóng nước vốn là một ước lệ nghệ thuật quen thuộc cho những kiếp đời trôi dạt. Cụm từ nghi vấn bèo dạt về đâu không chỉ miêu tả những cánh bèo nổi trôi trên mênh mang tràng giang mà còn gợi ánh mắt buồn bã trông về phương trời xa xăm bởi “về đâu” là cụm từ nhấn mạnh sự vô định, vô hướng: giữa mênh mông tràng giang, những cánh bèo nhỏ nhoi, ngơ ngác – giữa cuộc đời rộng lớn, con người biết đi đâu, về đâu? Phép điệp trong vế sau “hàng nối hàng” không chỉ miêu tả hình ảnh những cụm từ bèo nối nhau trôi dạt trên tràng giang mà còn đem lại cảm giác về sự nhàm chán, đơn điệu, buồn tẻ như muôn đời không đổi.
2. Không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên
– Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “tràng giang” càng được nhân lên bằng mấy lần phủ định:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
+ Từ láy “mênh mông” đặt ở đầu câu thơ như khẳng định lại cảm giác về một không gian rợn ngợp đã tỏa ra trong những hình tượng thơ ở các khổ thơ trên.
+ Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện sự giao nối của con người với cuộc sống, thường gợi về sự tấp nập gần gũi và gợi nhớ quê hương:
Chiếc cầu đám cưới đi qua.
(Đám cưới – Nguyễn Cảnh Trà)
Chiếc cầu là đêm trăng ta hò hẹn (Nhịp cầu nối bờ vui – Huỳnh Công), quê hương là cầu tre nhỏ (Quê hương – Đỗ Trung Quân)… là sự sống. Nhưng ở đây “không một chuyến đò” lạc qua, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì đó gợi về tình người, lòng nước muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chảy dài về phía chân trời xa như hai thế giới cô đơn, xa lạ không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu.
– Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định: không một chuyến đò ngang… không cầu để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Huy Cận làm hiện lên một không gian không có bóng dáng con người, càng không có tình người, không có những dấu hiệu, những nhu cầu của sự đoàn tụ, lại qua, gặp gỡ… chỉ có thiên nhiên hiu hắt, buồn vắng, mênh mông.
– Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
– Cảnh “tràng giang” chỉ còn lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Câu thơ vẽ lên được một bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng, buồn đến nao lòng. Những tính từ chỉ màu sắc “xanh, vàng” khiến bức tranh sáng hơn song vẫn không vì thế mà bớt đi cảm giác ảm đạm, buồn bã. Đó là vì từ láy “lặng lẽ” đứng ở đầu câu thơ đã phủ phủ lên toàn cảnh bức tranh thiên nhiên một sắc thái tĩnh lặng, hoang vắng vô cùng khi “bờ” tiếp “bãi”, màu “xanh” nối tiếp màu “vàng”, chỉ là những hình ảnh thiên nhiên im lìm trải dài như tới vô tận, không có hình bóng, dấu vết và hơi ấm của con người… Vẫn không có bóng dáng con người giữa không gian mênh mông của tràng giang, khổ thơ thứ ba đã thêm vào nỗi buồn cô đơn một niềm khao khát được giao cảm, niềm khao khát mãnh liệt tình đời, tình người…
3. Nhận xét chung về khổ thơ
– Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều buồn. Mỗi hình ảnh mang một nỗi buồn riêng. Chúng liên kết với nhau tạo thành một bức tranh gợi về số phận nổi trôi, bơ vơ, bất hạnh, vô định của kiếp người trong xã hội cũ.
– Về nghệ thuật, ở khổ thơ này tác giả sử dụng thủ pháp quen thuộc của nghệ thuật cổ điển: lấy không để nói có, nhắc nhiều đến cái không, làm cho ta càng thiết tha khát khao cuộc sống ấm cúng đông vui của con người.
IV. Khổ cuối 
1. Hình ảnh đẹp hùng vĩ của bầu trời
– Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
+ Từ láy “lớp lớp” gợi hình ảnh những đám mây chồng chất, nói tiếp nhau bay ngang trời, ngưng kết lại thành những dãy núi cao trùng điệp.
+ Thiên nhiên, cảnh vật, tạo vật qua tâm hồn Huy Cận buồn nhưng cũng có khi bộc lộ một vẻ đẹp kì vĩ, nên thơ. Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng khổng lồ cứ liên tiếp nở ra, ánh trời chiều chiếu vào trông như quả núi dát bạc trong nền trời trong xanh khiến cho ánh chiều trước khi vụt tắt ánh lên vẻ đẹp. Câu thơ dựng lên được một hình ảnh rất tạo hình như một bức tranh sơn mài. Đằng sau bức tranh là nỗi lòng thi nhân.
– Từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Động từ “đùn” diễn tả những đám mây và cũng là nỗi sầu tự mở ra, liên tiếp như có một sức đẩy từ bên trong. Đúng là: Sầu đong càng lắc càng đầy (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Câu thơ Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ trong bài Thu hứng nổi tiếng của Đỗ Phủ: Mặt đất mây đùn cửa ải xa trong ánh hoàng hôn cuối ngày.
⇒ Bức tranh hoàng hôn tuy đẹp nhưng vẫn buồn vì cảm giác tương phản giữa những không gian hùng vĩ của thiên nhiên với con người cô đơn, nhỏ bé…
2. Cánh chim giữa khoảng không mênh mông của bầu trời
– Trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng, bao la nhưng đẹp đẽ, hùng vĩ, nên thơ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy nắng hoàng hôn cùng “bóng chiều sa” xuống nhanh quá, nắng quá làm lệch cả cánh chim lấp lánh phía trời xa. Cánh chim nhỏ biểu hiện của sự sống, khát vọng, ước mơ bay liệng tuy có gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng vẫn không vơi được nỗi buồn của thi nhân. Bởi cánh chim chiều trong thơ Huy Cận có nét đặc sắc riêng của nó. Thơ ca cổ xưa nay khi miêu tả cảnh chiều tà thường vờn vẽ một vài hình ảnh cánh chim:
– Chim hôm thoi thót về rừng.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
– Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
(Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan)
Cánh chim trong thơ Huy Cận xuất hiện giữa lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Đúng là cánh chim trong Thơ mới. Nó nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn, buồn thương, tội nghiệp và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la.
– Trong tứ thơ của Huy Cận, cánh chim nhỏ bé còn là hình ảnh của cái “tôi” cá nhân cô đơn của cảm hứng lãng mạn. Cấu trúc câu thơ đưa tới sự cảm nhận: hoàng hôn buông xuống sau cái nghiêng cánh của chim – như vậy cánh chim không chỉ là tín hiệu của hoàng hôn mà còn có sức làm xao xuyến cả hoàng hôn.
– Trong câu thơ trên, nghệ thuật đối lập giữa hình ảnh cánh chim nhỏ bé với vũ trụ bao la làm cho không gian như bát ngát hơn và qua đó cũng xa vắng buồn bã hơn. Đến đây, nỗi sầu dâng kín “tràng giang” và từ trời cao đổ xuống cánh chim yếu ớt rồi thấm sâu vào cõi lòng nhân thế.
– Dấu hai chấm thần tình ngăn cách hai vế trong câu thơ: Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mĩ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
⇒ Cánh chim nhỏ bé như một tia nắng chiều sa xuống mênh mang, mất hút trong khoảng không vũ trụ, cõi lòng thi nhân đang trào dâng nỗi buồn đến não nề (Bình giảng văn học 11 – Nguyễn Thành Huân).
3. Hình ảnh sóng nước trong khổ đầu lại ùa về
– Giữa khung cảnh của tràng giang sóng nước người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng của thi nhân:
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
+ Từ láy “dợn dợn” gợi tả trạng thái những ngọn sóng dập dềnh lên xuống, khi nổi, khi chìm, từ đó diễn tả nỗi rợn ngợp của lòng người giữa sóng nước tràng giang.
+ “Vời” là mắt nhìn về phương xa, ánh mắt mải miết dõi theo những “con nước” nhấp nhô, gối đầu lên nhau, miên man, tít tắp…
– “Dợn dợn vời con nước” vừa là hình ảnh vừa là tâm trạng. Nó vừa diễn tả sóng lan ra vừa gợi cảm giác nỗi buồn lạnh lẽo u uẩn trải ra vời vợi không nơi bám víu. Sông vốn dài rộng càng thêm rộng mênh mông lại gặp lúc hoàng hôn đang xuống gợi nỗi buồn cô đơn da diết. Thì ra, nỗi buồn của nhà thơ trong chiều sâu thẳm của nó cũng có nguyên nhân rất cụ thể. Đó là nỗi buồn của người xa quê chạnh lòng nhớ tới quê hương xứ sở.
⇒ Nỗi buồn nhớ về một miền quê thân yêu, ấp áp đã xuất hiện trong ánh mắt ấy như một lẽ đương nhiên khi con người khao khát giao cảm, khao khát tình đời, tình người và cũng hoàn toàn vô vọng trong niềm khao khát ấy.
4. Tấm lòng yêu nhớ quê
– Huy Cận là một nhà thơ lãng mạn luôn luôn có nỗi lòng khắc khoải nhớ quê hương và một cảm giác cô đơn khi một mình đứng trước cái vô cùng của vũ trụ. Nỗi niềm ấy của một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu (Lửa thiêng) được diễn tả khá thấm thía và cảm động trong câu thơ cuối của bài:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
+ Huy Cận nhìn cao rồi nhìn xa theo tràng giang “vời con nước”. Ở trên nhà thơ đã phủ định: Không cầu gợi chút niềm thân mật, ở đây ông lại nói: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Nỗi buồn cô đơn và nỗi nhớ quê tràn ngập tâm hồn khách tha hương trong buổi hoàng hôn, bên dòng sông đang mải miết trôi về tận phương nào xa xôi.
+ Thôi Hiệu xưa nhớ nhà vì một sắc hoàng hôn:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.)
Người xưa nhìn khói sóng mơ màng trên sông lúc chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà đã đành. Còn Huy Cận không cần “khói hoàng hôn” gợi về một bếp lửa có người thân đang quây quần mà vẫn nhớ nhà tha thiết. Có nghĩa là, niềm thương nhớ quê hương của Huy Cận còn mãnh liệt và sâu sắc, cao độ hơn thành một tình cảm thường trực: sông càng rộng càng buồn nhớ quê hương da diết, cháy bỏng vì quê hương không chỉ là một làng quê thân thương nào đó mà nó còn là bến đậu của tâm hồn, là cội nguồn đời sống tinh thần, xây đắp trên nền tảng của một đời người. Cho nên, nỗi nhớ khắc khoải quê hương có mặt khắp mọi nơi và tự nó tuôn trào ra từ trái tim thi sĩ.
– Nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ quê hương không chỉ do hoàng hôn, không chỉ vì những tác động của ngoại cảnh như trong thơ xưa mà là nỗi buồn có sẵn trong người, tỏa ra từ lòng người, loang thấm vào ngoại cảnh – nỗi buồn của những người dân đang sống trên đất nước mình mà vẫn “nhớ nhà”, vẫn thấy như thiếu vắng quê hương. Nỗi buồn của thi nhân lãng mạn trước cảnh sông nước tràng giang đã kín đáo hòa quyện với lòng yêu quê hương đất nước.
⇒ Như vậy, câu kết đã khép lại một bức tranh phong cảnh và mở ra một nỗi lòng. Đó là nỗi sầu, niềm thương nhớ quê hương dâng trào man mác. Đây là tâm trạng rất hiện thực và điển hình của người dân mất nước. A-ra-gông đã viết: Sống trên đất nước mình mà như người khách lạ. Còn Huy Cận thì luôn luôn cảm thấy một tâm trạng tha hương, lưu lạc ngay trên Tổ quốc, ngay trên đất mẹ của mình. Đúng như câu thơ của Tố Hữu: Sống giữa quê hương mà bơ vơ như kiếp đi đày.
V. TỔNG KẾT
– Tràng giang của Huy cận không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là một bài thơ về tâm hồn. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời, luôn luôn khao khát hòa hợp cảm thông trong tình đất nước, tình nhân loại.
– Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, Tràng giang vừa mang phong vị thi ca cổ điển, vừa mang chất liệu hiện đại của thơ. Vẻ đẹp ấy cũng là nét đặc trưng của phong cách Huy Cận.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *