TÂY TIẾN
Quang Dũng là một gương mặt xuất sắc của thơ ca giai đoạn chống Pháp. Ông là một nghệ sĩ đa tài: vẽ tranh, soạn nhạc, làm thơ. Thơ ông mang nét phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Bài thơ “Tây Tiến” ra đời cuối năm 1948 khi Quang Dũng rời ra đoàn quân chưa được bao lâu.Với ngòi bút lãng mạn và bút pháp tài hoa, ông đã khắc họa thành công bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp trẻ trung, lãng mạn, đậm chất bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ, trữ tình.
VIỆT BẮC
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, là cánh chim đầu đàn cho nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông mãng chất trữ tình, chính trị sâu sắc đậm đà chất dân tộc. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời nhân sự kiện có ý nghĩa lịch sử: Tháng 10/1954 Trung Ương Đảng và chính phủ rời khu căn cứ địa Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội. Tác phẩm là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng cuộc kháng chiến.
ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ. Thơ ông giàu suy tư, cảm xúc dồn nén, đậm chất trữ tình, chính luận. Đoạn trích “ Đất Nước” được trích trong chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971) tại chiến khu Trị Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc. Đoạn trích là cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua nhiều phương tiện: Lịch sử, địa lý, văn hoá,… Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạng tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.Các chất liệu văn hoá, văn học dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn, lôi cuốn cho đoạn trích.
SÓNG
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ Xuấn Quỳnh là tiếng lòng của một người phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dụ đời thường. Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế tại vùng biển Diêm Điền (Thái Bình).Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh, diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thách thức với thời gian và sự hữu hạn của đời người.Từ đó ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Hồ Chí Minh coi văn học là thứ vũ khí chiến đấu phụng sự đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Khi cầm bút luôn xuất phát tự mục đích, đối tượng để quyết định nội dung và hình thức tác phẩm. Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Nhật đâu hàng đồng minh, nhân dân ta vùng lên giành lại chính quyền. 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Bác đọc ” Tuyên ngôc đọc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn bản không chỉ là văn kiện lịch sử vô giá mà còn là áng văn chính luận mẫu mực.
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
Lưu Quang Vũ là một tài năng nhiều mặt, là một nhà văn xuất sắc của văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông sáng tác nhiều thể loại và đặc biệt tạo ra tiếng vang ở thể loại kịch. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt ” là một trong những vở kịch tiêu biểu nhất của ông. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc. Quang đoạn trích vở kịch, ông muốn gửi tới người đọc một thông điệp: sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn . Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên hài hòa giữa thế xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị cao quý.
RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung thành là nhà văn đặc biệt thành công khi viết về tây Nguyên. Những sác tác của ông mang lại đậm chất tính sử thi và cảm hứng lãng mạng, thường đề cập đến những vấn đề lớn lao, trọng đại của dân tộc. Truyện ngắn” Rừng xà nu được viết năm 1965, là tác phẩm tiêu biểu về chiến tranh cách mạng, đề tài miến núi. Tác phẩm là một thiên truyện mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Thông qua câu chuyện về những con người ở bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xa nu bạt ngàn, tác giả đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc: để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thủ tán ác.
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ thuật giải phóng miền Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông được mệnh danh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Ông có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo. Văn Nguyễn Thi vừa giàu chất hiện thực, vừa đằm thắm chất trữ tình với ngôn ngữ phong phú, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ, có khả năng tạo nên những nhân vật có cá tính mạnh mẽ. Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” được rút ra từ tập “Truyện và ký” (1978), là kết tinh của sự gắn bó sâu nặng giữa tình yêu gia đình và tình yêu Tổ Quốc.
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân là nghệ sỹ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp. Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật, ông đã để lại cho đời nhiều áng văn giá trụ, trong đó phải kể đến “Người lái đò sống Đà” trích trong tùy bút “Sông Đà” năm 1960. tác phẩm là thành quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây bắc, với mục đích tìm kiếm” chất vàng” của màu sắc núi sông, và “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những sáng tác của ông đều theo phương châm đi tìm “hạt ngọc” ẩn dấu trong tâm hồn mỗi con người.Ngòi bút ấy giàu trách nhiệm, suy tư, trăn trở và khám phá. Văn bản “Chiến thuyền ngoài xa” in lần đầu trong tập “Bến quê”, tiêu biểu cho phong cách tự sự-triết lí của ông. Tác phẩm mang đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người: Nghệ thuật là cuộc đời nhưng cuộc đời chưa hẳn đã là nghệ thuật.
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
Hoàng Phủ Nọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắt trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trú tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú và triết học, lịch sử, địa lí, văn hóa… tất cả thể hiện qua lối hành văn hướng nội, xúc tích, mê đắm, tài hoa. Đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trích trong phần thứ nhất của tác phẩm cùng tên, được viết năm 1981. Đoạn trích là kết tinh tình yêu tha thiết và sự gắn bó sâu sắc của tác giả với cảnh vật và con người đất Huế.
VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng sáng tác kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có cùng sự am hiểu các phong tục tập quán khác nhau của các vùng miền. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích từ tập truyện “Tây Bắc”, là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng tại vùng Tây Bắc cùng bộ đội giải phóng. Tác phẩm khắc hoạ chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán nơi đây, đồng thời cho thấy cuộc sống đau khổ, tối tăm của những con người vùng thiểu số. Tác phẩm bộc lộ giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm.
ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA
Thanh Thảo là một trong những nhà thơ trường thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông là tiếng lòng của người trí thức giàu suy tư, niềm trăn trở về những vấn đề xã hội thời đại. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” rút từ tập “Khối vuông ru-bích”, tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm và không dễ hiểu vì ít nhiều nhuốn sắc màu tượng trưng, siêu thực. Tác phẩm thể hiện lỗi xót đau trước cái chết của Lor-car thiên tài, đồng thời bày tỏ thái độ khâm phục, ngưỡng mộ, tri âm sâu sắc