I. Mở bài
– Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
– Giới thiệu nội dung các khổ thơ cần phân tích.
II. Thân bài
– Sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những “Tiểu đội xe không kính”. Con đường giải phóng miền Nam
là con đường đi tới chính nghĩa nên họ càng đi, càng có thêm nhiều bạn “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”
– Lúc này, những chính chiếc xe không kính lại thật thuận tiện để họ trao nhau tình thân: “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Như chính nhà thơ thâm sự “Không phải mở cửa mà có thể thò tay thì sướng quá” Đó là cái bắt tay động viên, cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình cảm. Cái bắt tay thoải mái, tự nhiên, ấm lòng.
– Tình cảm ấy thắm thiết, ruột thịt như anh em trong một gia đình.
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một cách định nghĩa về gia đình rất mới, rất rộng, rất lính, thật tếu táo mà cũng đầy sâu sắc: chung bát, chung đũa, chung nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh khó khăn, chung một con đường, chung một lí tưởng, chung sự sống và cái chết. Đó là gia đình.
– Hai câu thơ cuối, với sự đối lập về ý thơ đã khẳng định sức mạnh tinh thần của người lính
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
+ Bữa ăn vội vã, giấc ngủ tạm bợ bên đường, đời lính thật gian khổ, đầy chông chênh, nguy hiểm
+ Tuy nhiên điệp từ “lại đi” và hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” đã khẳng định ý chí chiến đấu, nghị lực vững vàng, niềm tin và tinh thần phơi phới lạc quan của người lính. Sức mạnh tinh thần đó là sự tổng hợp của phẩm chất anh hùng cách mạng, tinh thần lạc quan và tình đồng đội tiếp thêm sức mạnh để họ vượt qua mọi gian lao, để rồi “lại đi, lại đi trời xanh thêm”, đoàn xe không ngừng vươn tới trên con đường giải phóng miền Nam.
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
– Với biện pháp liệt kê, điệp ngữ “không có” nhấn mạnh sự trần trụi, biến dạng của những chiếc xe. Càng vào sâu trong chiến trường, chiếc xe càng trở nên méo mó, biến dạng. Một lần nữa, thông qua hình ảnh những chiếc xe, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã gián tiếp miêu tả sự ác liệt của chiến trường.
– Điều kì lạ là những chiếc xe không kính, không đèn, không mui ấy vẫn băng băng ra chiến trường. Ở đây có sự đối lập giữa vẻ bên ngoài và khả năng của chiếc xe, giữa điều kiện vật chất và sức mạnh tinh thần của người lính lái xe. Để cân bằng ba cái không có ở trên chỉ cần một cái có đó là trái tim người lính. Đến đây, ta càng thấy được sự ngang tàng, hóm hỉnh nhưng cũng thật sâu sắc trong thơ Phạm Tiến Duật, những chiếc xe dường như không chỉ chạy bằng nhiên liệu mà thật độc đáo khi có một trái tim cầm lái, Trái tim là 1 hình ảnh hoán dụ nhưng đồng thời cũng là hình ản ẩn dụ, nó hội tụ vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ lái xe giàu nhiệt huyết, sắt son tình yêu tổ quốc, sục sôi căm thù giặc và ý chí quyết tâm chiến đáu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
=> Hình ảnh trái tim kết thúc bài thơ đã trở thành nhãn tự của cả bài, tỏa sáng vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn nói riêng và của cả thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
III. Kết bài:
Tổng kết vấn đề.
Bài văn tham khảo
Phạm Tiến Duật là nhà thơ thuộc thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các tác phẩm của ông đa phần đều viết về hình tượng của người lính và những người con gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của ông là một trong những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc, đặc biệt là ba khổ cuối của bài thơ.
Thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969 nằm trong tập Vầng trăng quầng lửa của ông. Với giọng điệu sôi nổi, tươi trẻ cùng hình tượng độc đáo, bài thơ đã khắc họa sống động hình ảnh của những người lính lái xe trên đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Họ là những chàng thanh niên trẻ tràn trề nhựa sống, luôn hiên ngang, lạc quan, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn, hướng một lòng về miền Nam yêu quý. Ba khổ thơ cuối của bài thơ đã khắc họa rất thành công hình ảnh của những người lính lái xe với tình đồng chí đồng đội thắm thiết cùng tình thần, ý chí quyết tâm vì miền Nam ruột thịt.
Sau những chặng đường đầy gian khổ với những trận mưa bom, bão đạn, bụi đất, mưa tuôn “xối như ngoài trời”, những người lính lái xe được trở về trong phút giây bình yên hiếm hoi giữa nơi chiến trường khói lửa này. Và trong những giây phút đó, tinh thần đồng chí đồng đội của họ hiện lên rạng ngời hơn bao giờ hết:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi” đã gợi lên cho chúng ta thấy không chỉ là sự khốc liệt của chiến tranh mà còn là sự gan góc, kiên cường của những người lính lái xe. Trải qua quãng đường dài với những “bom giật bom rung”, những chiếc xe của những người lính lái xe giờ đây quây quần bên nhau thành một “tiểu đội”. Những cái “bắt tay” vội vã “qua cửa kính vỡ rồi” đã thể hiện được tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, gần gũi. Cái bắt tay không chỉ là lời chào hỏi mà còn là sự sẻ chia, lời động viên lẫn nhau của những người lính.
Không chỉ sẻ chia những khó khăn trong công việc, những người lính lái xe còn cùng nhau những khó khăn, ngọt bùi trong cuộc sống sinh hoạt:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Bếp Hoàng Cầm là loại bếp dã chiến được sử dụng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Bếp Hoàng Cầm xuất hiện trong khổ thơ không chỉ gợi liên tưởng đến những giờ giải lao hiếm hoi, những bữa ăn chớp nhoáng của người lính lái xe mà còn là “phương tiện” gắn kết tình cảm đồng đội, đồng chí giữa những người lính. Họ quây quần bên nhau, cùng chung bát đũa, thân thiết giống như những người thân trong gia đình. Chính tình cảm chân thành của tình đồng chí đồng đội, tinh thần yêu nước đã trở thành nguồn động lực, sức mạnh to lớn để những người lính vượt qua những khó khăn của bom đạn và chiến thắng trước kẻ thù.
Sau những giờ nghỉ ngơi ít ỏi, cùng giấc ngủ chớp nhoáng trên những chiếc võng “mắc chông chênh trên đường xe chạy”, những người lính lại tiếp tục cuộc hành trình chi viện cho miền Nam ruột thịt:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
“Lại đi, lại đi” gợi liên tưởng đến những chiếc xe không biết mệt mỏi, xuyên rừng, xuyên núi, vượt mưa bom bão đạn để về với miền Nam, cùng với đó là tinh thần mạnh mẽ, kiên cường, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh của những người lính lái xe. Hình ảnh “trời xanh” là một nét vẽ, một ẩn dụ vô cùng đẹp đẽ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bầu trời xanh ấy không chỉ tượng trưng cho sự sống mà còn là màu của tự do, hoà bình và độc lập. Những người lính lái xe dành hết mọi sức lực để tiến về phía “trời xanh” ấy, họ chiến đấu để giành lại bầu “trời xanh” hoà bình cho dân tộc Việt Nam.
Hai khổ thơ 5 và 6 đã cho chúng ta thấy được tình cảm đồng chí đồng đội hết sức gắn bó, chân thành của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ chỉ là những con người xa lạ, gặp nhau, bắt tay nhau trong tiếng cười qua ô cửa kính xe đã vỡ nhưng chỉ từng đó cũng đủ để tạo cho họ một tình cảm sâu sắc, thiêng liêng mà không phải ai cũng có được!
Trong khổ thơ cuối cùng, hình ảnh những chiếc xe không kính lại một lần nữa xuất hiện. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, nhà thơ chỉ nêu ra hình ảnh của những chiếc xe thiếu kính vì “bom giật bom rung”, thì ở khố cuối này, sự thiếu thốn ấy lại càng gia tăng gấp bội:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Những chiếc xe vốn đã méo mó, thiếu thốn nay càng trở nên biến dạng hơn dưới sức hủy diệt của bom đạn kẻ thù. Xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước gợi ra cái ác liệt của cuộc chiến tranh, qua đó còn làm nổi bật lên tinh thần hiên ngang, dũng cảm của những người lính lái xe. Dẫu xe có bị tàn phá đến biến dạng, hoạt động lái xe cũng gặp muôn vàn những khó khăn, thế nhưng những người lính vẫn giữ vững một niềm tin “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Hai từ “chỉ cần” ở đầu câu thơ cho thấy một thái độ ngang tàng, hiên ngang của những người lính. Những chiếc xe kia có biến dạng ra sao thì chỉ cần một người lính với trái tim nhiệt huyết thì nó vẫn sẽ tiến lên, hướng về miền Nam thân yêu. Nhịp thơ ở đây đột nhiên dồn dập, gấp gáp lạ thường, bởi vì nó chứa đựng sự sôi sục, ý chí của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Có lẽ đây là câu thơ hay nhất của cả bài thơ. Nó đã làm nổi bật lên hình tượng, ý chí và lòng quyết tâm chiến đấu của những người lính lái xe Trường Sơn trong những năm tháng ấy.
Với chất liệu hiện thực cùng một giọng thơ tươi vui, tự nhiên, khoẻ khoắn, bài thơ đã khắc hoạ vô cùng thành công hình ảnh của những người lính lái xe ngàng tàng mà trẻ trung, lạc quan, yêu đời. Nhịp thơ biến hoá linh hoạt, lúc nhanh, dồn dập, khi lại chậm rãi, yên bình, phù hợp với nhịp tiến hành quân của đoàn xe “không kính”. Những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ cũng góp phần khắc hoạ thành công hình tượng của những người lái xe Trường Sơn năm xưa.