1. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân.
– Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Làng”.
– Nêu ý kiến đánh giá sơ bộ về tác phẩm, nhân vật.
2. Thân bài:
a. Khái quát về tác phẩm (Hoàn cảnh sáng tác, bố cục, vị trí đoạn trích, …)
– Truyện ngắn “làng” của nhà văn Kim Lân được viết năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
– Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm.
– Vị trí của đoạn trích.
b. Cảm nhận về tâm trạng nhân vật ông Hai trong đoạn trích.
* Tâm trạng bàng hoàng, sửng sốt, bán tín bán nghi khi bất ngờ nghe được tin làng theo giặc.
– Ông đang Hai vui sướng đến tột độ khi nghe được nhiều tin kháng chiến rồi bất ngờ cho ông nghe được tin làng theo Tây.
– Lời kể của người đàn bà cho con bú đã dập tắt tất cả. Như một nhát dao cứa vào trái tim ông, nghe như một tiếng sét bên tai làm ông hoảng loạn và sụp đổ (Dẫn chứng: ” Cổ nghẹn ắng hẳn lạ,da mặt tê rân rân.Ông lão lặng đi tưởng đến không thở được”).
-> Đó là cái cảm giác sững sờ choáng váng, co thắt từng khúc ruột của ông; là trạng thái tâm lí hết sức tự nhiên của một người quá yêu làng. – Ông Hai không tin vào những điều mà mình vừa nghe: “Liệu có thật không hở bác?”. Câu hỏi thể hiện sự bán tín, bán nghi. Ông mong mỏi tin ấy không đúng, chỉ là một sự nhầm lẫn…
– Cái tin làng theo Tây khiến ông xấu hổ đành đánh trông lảng ra về: “Hà! Nắng gớm, về nào! Ông Hai “Cúi gằm mặt xuống mà đi”. Ông không giám ngẩng mặt lên vì xấu hổ, …
*Ông trở về nhà mang theo tâm trạng vừa xấu hổ, nhục nhã vừa căm giận.
– Về đến nhà ông Hai nằm vật ra giường “nhìn lũ con tủi thân nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”.
– Càng thương con bao nhiêu thì nỗi căm tức của ông lại càng lớn bấy nhiêu. Ông nắm chặt hai bàn tay và rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bản nước để
nhục nhã thế này”.
-> Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước | theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy. Niềm tin nỗi nhớ | cứ giằng xé trong ông. Tủi thân ông Hai thương con, thương dân làng chợ Dầu,thương thân mình mang tiếng là người làng việt gian.
=> Ông Hai là người rất yêu làng, dành trọn tình cảm cho làng Chợ Dầu của mình nên ông không thể nào tránh khỏi cảm giác đau đớn, căm hờn khi hay tin làng Dầu từ một làng kháng chiến nay lại làm Việt gian bán nước.
c. Nghệ thuật:
– Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, gần gũi.
– Tình huống truyện bất ngờ, hợp lí.
– Nhân vật được khắc họa thành công chủ yếu qua ngôn ngữ độc thoại, độc thoại nội tâm.
3. Kết bài:
– Khẳng định tâm trạng của nhân vật ông Hai trong đoạn trích đã thể hiện được tình yêu làng tha thiết, mãnh liệt.
– Đánh giá sự thành công của tác phẩm/ liên hệ, trình bày suy nghĩ
bản thân.
Bài văn tham khảo
Kim Lân là gương mặt tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và mảng đề tài về nông thôn Vin gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống thôn quê nên hầu như Kim Lân chi viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Trong số những tác phẩm thành công về đề tài ấy, “Làng” là một truyện ngắn tiêu biểu. Kim Lân sáng tác truyện ngắn này vào năm 1948, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thiên truyện xuất sắc này, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật ông Hai. Đặc biệt, truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân mà đặc biệt là đoạn trích trên đã thể hiện một cách sinh động và tinh tế diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Qua diễn biến tâm trạng ấy ta thấy được những chuyển biến mới trong đời sống tinh thần của người nông dân Việt Nam trong đó buổi đầu kháng chiến. Đó là sự hòa quyện, thống nhất giữa tình yêu làng quê với lòng yêu đất nước và tinh thần chống Pháp.
Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm, đó là một người nông dân có tình yêu làng quê sâu sắc, nhưng vì hoàn cảnh, ông buộc phải rời làng đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông vẫn luôn nhớ về làng Chợ Dầu quê ông và tự hào khoe làng ông là làng kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai đã được nhà văn đặt vào một tình huống đầy thử thách. Đó là tin đồn làng chợ Dầu mà ông vẫn tự hào đã làm Việt gian theo Tây. Người nông dân ấy đã trải qua tâm trạng dằn vặt, đau đớn, phải tự đấu tranh với chính mình để lựa chọn con đường đúng đắn. Từ tình huống có ý nghĩa thử thách ở nội tâm nhân vật nhà văn đã mở ra biết bao cung bậc cảm xúc của một tấm lòng yêu làng, yêu nước và những chuyển biến mới trong tâm hồn, tình cảm của người nông dân này.
Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã được nhà văn Kim Lân thể hiện thật sinh động và tinh tế. Lúc mới nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai bàng hoàng đến sửng sốt “Cổ ông lão nghẹn ng hắn lại, da mặt tê rần rần, ông lão lặng đi đến không thở được. Một lúc lâu, ông mới rặn è è như nuốt một cái gì vướng trong cô, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi”. Trạng thái bàng hoàng, hụt hẫng này là phản ác tâm lý hết sức tự nhiên của một người quá yêu làng. Nếu không yêu thì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc không thể gây chấn động mạnh tựa như một cú sốc tinh thần như thế với ông Hai. Song, ông Hai vẫn còn nghi ngờ chưa thể tin ngay lời đồn đại, ông lắp bắp hỏi lại: “Liệu có thật không hở bác, hay là chi lại …”. Ông hỏi lại để khẳng định cũng là để cố bấu víu vào một tia hi vọng rằng đó chỉ là sự nhầm lẫn là một lời đồn đại vô căn cứ. Nhưng khi cái tin được khẳng định từ những người tản cư thì ông Hai không thể không tin. Từ lúc ấy, tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt bởi mặc cảm là người làng Việt gian. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian bán nước “ông cúi gằm mặt xuống mà đi” ta nhận thấy trong cái cúi mặt này biết bao xấu hổ, nhục nhã, đau đớn. Nỗi nhục khiến ông không thể ngẩng đầu lên được. Phải chăng, ông Hai đã đồng nhất danh dự của ông với danh dự củ làng ông. Với ông, danh dự của làng cũng là danh dự của chính ông . Đây là nét tâm lý cộng đồng của người nông dân Việt Nam trong thời đại mới.
Về đến nhà, ông Hai càng tủi thân, thương con thương mình và thương cả nhữn người nông dân làng chợ Dầu vì mang tiếng là làng Việt gian: “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lại cứ giàn ra, chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư. Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”. Nghĩ đến sự khinh bỉ của mọi người, ông Hai càng căm giận những kẻ Việt gian bán nước. Ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Nhà văn Kim Lân đã sử dụng thật tài tình độc thoại để bộc lộ nỗi lòng nhân vật. Sự căm giận, nỗi tủi hổ, nhục nhã trong lòng người nông dân này không kìm nén nổi đã bật ra thành tiếng chửi. Trong nội tâm nhân vật ông Hai đã diễn ra một sự giằng xé giữa tin và không tin. Một mặt, ông Hai kiểm điểm lại từng người trong óc “họ toàn là những người có tinh thần cả mà”. Ông tin những người ở lại làng không ai can tâm làm điều nhục nhã ấy. Nhưng rồi ông lại phân vân: “Thằng Chảnh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bia tạo ra những chuyện ấy làm gì”. Nhà văn Kim Lân đã rất tinh tế khi phát hiện ra nét tâm lý nửa tin nửa ngờ ở nhân vật. Vì quá yêu làng nên ông Hai cố tìm một chút hy vọng để bấu víu. Nhưng rồi trước những chứng cứ hiển’ nhiên, ông đành cay đắng chấp nhận sự thật. Từ lúc ấy, nỗi nhục nhã lại sôi réo trong lòng ông: Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!”. Ông Hai lại càng hoàng mang, lo sợ, sẽ tuyệt đường sinh sống khi nghĩ đến việc người ta sẽ không chứa, không buôn bán gì người làng Việt gian.
Ông Hai là nhân vật tiêu biểu điển hình về người nông dân trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, người nông dân yêu làng, yêu nước, có niềm tin tuyệt đối vào cách mạng. Qua nhân vật ông Hai, ta thấy được nhận thức của người nông dân về cuộc kháng chiến và trong cuộc kháng chiến chống Pháp họ đã góp phần làm lên thiên sử vàng vẻ vang của dân tộc. Thấy được nghệ thuật miểu tả nhân vật tài tình của nhà văn Kim Lân cũng như tình cảm gắn bó, quý trọng người nông dân của nhà văn.